Lưu trữ

31/8/11

Lũ đẹp và sạ ngầm lúa sau lũ



CÂY LƯƠNG THỰC. Lũ đẹp là tản văn hay của anh Chu Nhạc. "Con đường từ Long Xuyên đi Châu Đốc, rồi bẻ quẹo đi Núi Sam, Nhà Bàng, Tịnh Biên, Tri Tôn, bên sông, bên đồng, mênh mông nước. Lũ đẹp, cụm từ ấy luôn được lặp đi lặp lại trên miệng người xứ sở này. Lũ đẹp, niềm vui hiện rõ trên gương mặt mọi người . Bên dưới mặt đất đồng bằng là túi phèn tiềm tàng. Ấy vậy, năm nào lũ lớn lũ đẹp, không những nhiều tôm cua cá về theo nước, mà thêm phù sa màu mỡ, đồng ruộng được thau chua rửa mặn. Ngược lại, lũ nhỏ, vụ sau mất mùa... Bao đời nay đã thế, và bây giờ cũng không mấy khác. Kỹ thuật canh tác cao cũng chỉ giúp được con người ta phần nào thôi, bởi thiên nhiên có những quy luật riêng của mình. Hôm chia tay Miền Tây, máy bay cất cánh từ sân bay Trà Nóc, Cần Thơ. Đồng bằng sông Cửu Long trắng trời nước, từ cửa sổ máy bay nhìn xuống, thấp thoáng những mái nhà, những hàng dừa xanh... Lũ đẹp !..."Phải là người từng trãi nghề nông và miền Tây mới hiểu thau chua, rữa phèn, sống chung với lũ, né lũ, lũ đẹp và sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ. ĐBSCL có 1,6 triệu ha đất phèn, đặc biệt vùng đất phèn nặng do địa hình trũng, nước rút chậm nên áp dụng phương pháp sạ ngầm trong tháng 12 để sạ sớm hơn 2-3 tuần so với chờ nước rút cạn sạ ướt gác sang tháng 1. Kỹ thuật sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ ở vùng Tây Nam Bộ có ý nghĩa tương tự như kỹ thuật trồng ngô đông, khoai lang đông trên đất ướt ở miền Bắc Việt Nam có lợi là "cướp thời vụ", chi phí nhẹ, năng suất cao hơn so với gieo muộn. Mười điểm lưu ý khi sạ ngầm lúa sau lũ ở ĐBSCL là những kinh nghiệm rất quý ở Tây Nam Bộ.

Tôi nghe lần đầu các chữ “lũ đẹp” cùng với “né lũ ” “dưới đáy đại dương là ngọc” và “chưa kỹ đậu con, đừng vội làm sư” là từ bác Năm Hoằng, bố của chị Ba Sương. Hiện nay, tôi vẫn còn giữ cái máy điện thoại di động bác tặng cho từ thuở bác nói với tôi rằng thích “đi chân đất, đầu đội trời, nói lời hay, làm việc tốt” . Chuyện hay là vậy mà thấm thoắt đã trên 15 năm rồi. Cha con của hai người anh hùng, thì người đã chết không thể đội mồ ngồi dậy để biện minh cho quyết sách lập “quỷ đờì sống” là đúng hay sai trong quá khứ, người thì ngồi tù sau khi đã nhận tống đạt kết luận điều tra. Trận lũ lớn tràn qua như trận lũ của các bác Lê Huy Ngọ, Nguyễn Quang Hà có phù sa được bồi là lương tâm xã hội được thức tỉnh. Anh Chu Nhạc trong cái hôm đi từ Cần Thơ lên An Giang, … có nhớ về xe ngựa Bảy Núi vậy có bùi ngùi khi ngang qua Nông Trường Sông Hậu? Lũ đẹp, sạ ngầm, mùa cá linh, bông điên điển, Thất Sơn, Cửu Long … đất và người phương Nam ấn tượng biết mấy ?


Mười điểm lưu ý khi sạ ngầm lúa trên đất phèn sau lũ

1. Điều kiện đầu tiên để áp dụng phương pháp sạ ngầm là: Nước trong, như vậy không phải vùng nào cũng sạ ngầm được, vùng có ưu thế để sạ ngầm là: Vùng đất phèn, đặc biệt là vùng đất phèn nặng (chất phèn sẽ làm lắng phù sa và làm cho nước trong nhanh).

2. Chỉ khi nước rút lộ bờ mới được sạ, bà con nông dân cần củng cố bờ vùng, bờ thửa và hệ thống kênh mương thủy lợi nội đồng cho tốt.

3. Mực nước lúc sạ: Từ 20-40cm là phổ biến nhất. Địa hình cao, nước rút nhanh có thể sạ ở mức 40cm. Địa hình trũng, nước rút chậm, có thể chờ nước rút đến 15-20 cm mới sạ. Nói chung canh chiều cao mực nước cũng chưa đủ, cần canh tốc độ nước rút sao cho sau khi sạ 2 tuần, cây lúa mọc khỏi mặt nước là sạ ngầm thành công. Sạ ở mức nước quá thấp <10 cm, dưới sức nóng mặt trời, nung lớp nước trên ruộng sẽ quá nóng, luộc mầm, lúa chết. Sạ ở mức nước quá cao (>50cm) cây lúa nằm lâu trong nước sẽ yếu về sau đẻ chồi kém và cho năng suất rất kém.

4. Đóng tất cả cống bọng lại trước lúc sạ để:
- Tránh tạo dòng chảy, nếu có dòng chảy sẽ làm nước đục và cây lúa mới mọc quá yếu sẽ ngã rạp theo dòng chảy hư lúa.
- Tránh cua cá ốc từ bên ngoài ruộng lúa vào ăn mầm của hạt giống.

5. Cần tiến hành lồng trục 2 lần (nếu được là 3 lần) trước khi sạ (để có lớp đất mặt tơi, nhuyễn) và vơ cỏ thật sạch. Nếu còn xác cỏ trên ruộng lúa, hạt giống sẽ nằm trên cỏ và sẽ bị nổi về sau.

6. Giống lúa: Chỉ được phép ngâm ủ "búp" vừa nứt nanh trắng, có nghĩa là không để ra mầm ra rễ quá dài (sạ xuống dễ bị nổi). Kỹ thuật ngâm ủ là: Ngâm 24-36 giờ, ủ 36 giờ là đủ (cướp ngót), nhớ ủ ấm, đảo đều. Lượng giống cho sạ ngầm (giống tốt: 140-160 kg/ha) cao hơn khuyến cáo cho sạ gác (100-120 kg/ha).

7. Nên bón lót phân lân nung chảy: Ninh Bình hoặc Văn Điển (400 kg/ha) là rất tốt (về sau sẽ bớt lượng phân DAP). Sạ ngầm tuyệt đối không dùng phân lân dễ tan khi cây lúa còn nằm trong nước (cấm dùng DAP, Super lân Lâm Thao, Super Lân Long Thành khi cây lúa còn nằm trong nước). Sau khi cây lúa ló lên khỏi mặt nước mới được phép bón các dạng lân dễ tan.
Biện pháp trộn giống (búp) với lân nung chảy nên khuyến cáo: Tỷ lệ trộn 1:1, cách làm: Bao giống sau khi ủ nứt nanh trắng mang nhúng xuống nước, xách lên, nước đang chảy ròng ròng, trải mỏng hạt giống ra và khui bao lân nung chảy dạng bột, rắc phân lân nung chảy lên và trộn đều, trộn xong đến đâu, mang gieo ngay đến đó. Lượng phân lân còn lại (của tổng số 400 kg/ha) sẽ được tiếp tục bón lót xuống ruộng. Biện pháp áo lân hạt giống cùng với việc đóng tất cả cống bọng lại sẽ hạn chế rất lớn tác hại của cua cá ốc (sạ ngầm với cách này không dùng nông dược để diệt cua cá ốc)

8. Sau khi sạ xong, hạn chế tối đa người và gia súc lội xuống ruộng (lội xuống làm nước đục, chết lúa)

9. Nên bón urê để thúc mầm từ 1-3 ngày sau sạ: Lượng từ 20-50 kg/ha (tùy độ đục của nước).

10. Trong trường hợp nước quá đục: Mực nước <20 cm cây lúa từ từ sẽ mọc lên. Nếu mực nước >20cm cần tiến hành đặt máy bơm 2 góc ruộng, bơm với lưu lượng vừa phải (tránh dụm lúa, nổi lúa) để loại bỏ lớp nước đục (sau đó nước mội sẽ xì lên và có độ trong hơn).

Theo www.nongnghiep.vn

Hình suốt lúa ở Cao Lãnh và ở Miên








hoangkimvietnam said

Chào Cao Nguyên em gái Nam Bộ. Đến thăm em dòm trộm em đang mãi miết chụp hình suốt lúa. Trời xanh thiệt....Hình chụp đẹp và nét thiệt... Em thì chụp hoài còn anh thì coi hoài và nghe nhạc hoài không chán. Anh ngó đi ngó lại cô Út em chụp đến ba bốn tấm hình mà không rõ mặt. E cũng đừng nên nhìn rõ làm chi mà chỉ nên nhạt nhòa như vậy, như biết bao đứa em, đứa cháu , đứa học trò lam lũ theo cái nghiệp nhà nông "Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẽo thơm một hột đắng cay muôn phần" ... Vậy mà cứ vô tư đi em, như thằng nhỏ hai lúa và như bài hát này. Hay lắm. Anh xin em rinh bài này về trang http://cayluongthuc.blogspot.com Anh cũng có mấy tấm ảnh suốt lúa ở Miên nhưng không đẹp và không ngộ bằng của em"



caonguyenbui wrote:
Thầy Kim tự nhiên rinh về đi. Thực ra thì CNB tính chụp rõ mặt cô gái hứng lúa, mà nghĩ đem hình người ta lên mạng thì không được, nhạt nhòa vậy biết đâu lại hay.....

Nghe nhạc ngày mùa và xem phóng sự ảnh suốt lúa của Bùi Cao Nguyên tại đây

NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC

24/8/11

Cây lúa Việt Nam lời giới thiệu




PGS.TS. Bùi Bá Bổng
Thứ trường Bộ Nông nghiệp và PTNT


Lúa là cây trồng cổ truyền của Việt Nam và là cây trồng quan trọng nhất hiện nay vì diện tích gieo trồng lúa chiếm đến 61% diện tích trồng trọt cả nước và 80% nông dân Viêt Nam là nông dân trồng lúa. Gạo là lương thực thiết yếu hàng đầu của người Việt Nam vì 100% của dân số 87 triệu người không ai không ăn gạo hàng ngày từ người thu nhập thấp đến người thu nhập cao, từ nông thôn đến thành thị.

Chính vì tầm quan trọng của lúa gạo, thời gian qua Chính phủ Việt Nam luôn luôn đặt phát triển lúa gạo là nhiệm vụ trung tâm của phát triển nông nghiệp và đã có những đầu tư thích đáng cho xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hệ thống thủy lợi, nhờ vậy chỉ trong vòng 30 năm đã biến nhiều vùng đất khó khăn trở thành những vùng đất trồng lúa trù phú cho đất nước, mà điển hình nhất là vùng đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài đầu tư cơ sở hạ tầng, Nhà nước cũng đã quan tâm đầu tư về khoa học công nghệ và khuyến nông đối với cây lúa và các chính sách hỗ trợ nông dân. Nhìn lại 20 năm qua, sản xuất lúa ở Việt Nam đã có những tựu đặc biệt ấn tượng, mà dấu mốc lịch sử là năm 1989, khi Việt Nam, một nước thiếu lương thực lần đầu xuất hiện là nước xuất khẩu gạo với số lượng lến đến 1 triệu tấn và sau đó, từ 1990 đến 2010 sản lượng lúa từ 19 triệu tấn tăng lên 40 triệu tấn, xuất khẩu gạo từ 1,6 triệu tấn tăng lên 6,7 triệu tấn, trong bối cảnh diện tích đất lúa năm 2010 đã giảm 380.000 ha nếu so với năm 2000. Năng suất lúa bình quân toàn quốc đã tăng từ 3,18 tấn/ha năm 1990 lên 5,3 tấn/ha năm 2010. Từ năm 2002 đến nay, năng suất lúa bình quân của Việt Nam luôn dẫn đầu các nước ASEAN và ít nhất trên nửa triệu ha năng suất lúa Việt Nam đạt trên 7 tấn/ha trong vụ Đông Xuân là mức năng suất lúa tiên tiến của thế giới hiện nay.

Những thành tích nêu trên là có thật, nhưng chúng ta không thể không day dứt vì những lẽ nông dân trồng lúa chưa có thu nhập tương xứng do những hạn chế trong phát triển sự liên kết giữa sản xuất - tiêu thụ - xuất khẩu của ngành lúa gạo nước ta và trong chuỗi giá trị lúa gạo người nông dân ở thế thiệt thòi nhất, do cơ sở hạ tầng phục vụ sau thu hoạch, tồn trữ, chế biến lúa gạo còn nhiều yếu kém dẫn đến chất lượng gạo thấp, giá gạo xuất khẩu thấp.

Bên cạnh đó, sản xuất lúa gạo nước ta đang bước vào thời kỳ có nhiều thử thách mới, trong đó có các thử thách nội sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và các thử thách mang tính thời đại như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và an ninh lương thực. Những năm gần đây, diện tích đất lúa nước ta giảm rất nhanh do nhu cầu sử dụng làm khu công nghiệp, giao thông, nhà ở, v.v. hoặc chuyển sang làm vuờn cây, nuôi trồng thủy sản. Trong vòng 10 năm từ 2000 đến 2009 diện tích đất lúa đã giảm 380 nghìn ha. Diện tích lúa còn tiếp tục giảm theo tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa và nếu không được kiểm soát nghiêm ngặt việc chuyển đất lúa sang các mục đích phi nông nghiệp, an ninh lương thực lâu dài của đất nước sẽ bị đe dọa khi dân số nước ta mỗi năm tăng trên 1 triệu người. Ngoài ra, do biến đổi khí hậu các vùng sinh thái vùng trồng lúa sẽ mất cân bằng nghiêm trọng khi nguồn nước cho canh tác trở nên ít hơn, hạn hán, lũ lụt nhiều hơn, xâm nhập mặn sâu hơn, mật độ bộc phát dịch sâu bệnh hại lúa cao hơn, v.v.

Trước các thử thách nêu trên, ngành lúa gạo Việt Nam phải có những đổi thay lớn để tạo ra bước phát triển mới cho giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến 2030. Trong bối cảnh này, cuốn sách Cây Lúa Việt Nam - tập III do GS. TS. AHLĐ Nguyễn Văn Luật chủ biên được phát hành tiếp theo tập I và tập II; đây là một bộ sách cung cấp các tư liệu và thông tin rất bổ ích về lúa gạo Việt Nam được biên tập rất công phu và nghiêm túc. Tôi xin trân trọng giới thiệu cuốn sách này đến quý độc giả.

Hà Nội, tháng 8 năm 2011
PGS.TS. Bùi Bá Bổng

NGỌC PHƯƠNG NAM
, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC, FOOD CROPS

22/8/11

Những tiến bộ sản xuất lúa lai trên thế giới




CÂY LƯƠNG THỰC. Nguyễn Phước Tuyên 2011. Những tiến bộ sản xuất lúa lai trên thế giới (Bài tổng hợp). Lúa lai là kỹ thuật chìa khóa để gia tăng năng suất, sản lượng lúa Trung Quốc là nước phát triển lúa lai nhất thế giới. Đến năm 2010, diện tích lúa lai Trung Quốc lên 20 triệu ha, chiếm 70% diện tích canh tác lúa của Trung Quốc, đã góp phần đưa năng suất lúa từ 4,24 tấn/ha của năm 1979 lên 6,58 tấn/ha năm 2009, trong khi năng suất lúa trung bình của thế giới chỉ có 4,32 tấn/ha (FAOSTAT, 2011), Diện tích lúa lai của các nước ngoài Trung Quốc trên 3 triệu ha, trong đó Việt Nam khoảng 600.000 ha, chủ yếu trồng ở các tỉnh phía Bắc và một số tỉnh miền Trung, Tây Nguyên. Các dòng lai giữa Indica và Japonia đều cho năng suất trên 9 tấn/ha. Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã lai tạo ra Việt Lai 20 vào năm 2004 đã được công nhận là giống quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Từ đó đến nay, có nhiều giống lúa lai khác được ra đời như TH3-3, TH5-1, TH 3-4 và Việt Lai 24, những giống này cũng đã được công nhận là giống quốc gia và đang được sản xuất trên diện tích hàng chục nghìn héc-ta là những thành công ban đầu của canh tác tự lai tạo và sản xuất hạt giống lúa lai tại Việt Nam.



NHỮNG TIẾN BỘ SẢN XUẤT LÚA LAI TÊN THẾ GIỚI


ThS. Nguyễn Phước Tuyên
Sở Nông nghiệp - PTNT Đồng Tháp

Hội nghị lúa lai tổ chức tại Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI với 38 tổ chức tư nhân và chính phủ năm 2008, đến năm 2010, con số này phát triển lên 47 tổ chức với mục tiêu tăng cường trao đổi thông tin và hợp tác giữa các tổ chức nghiên cứu tư nhân và nhà nước trong phát triển kỹ thuật lúa lai. Kỹ thuật này là chìa khóa để gia tăng năng suất sản lượng lúa từ thập niên 1970, đến năm 2008 diện tích trồng lúa lai trên thế giới lên đến 20 triệu ha, trong đó có 3 triệu ha ở những nước ngoài Trung Quốc.

Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI đã hợp tác với các cơ quan nghiên cứu trong việc tìm nguồn hỗ trợ tài chính, vật liệu lai tạo, phổ biến các giống mới. Nghiên cứu lúa lai bắt đầu ở các cơ quan nghiên cứu để tìm các nguyên lý cơ bản khoa học, giải quyết các trở ngại trong kỹ thuật, kinh tế và chính sách hỗ trợ. Với sự tiến bộ kỹ thuật, các công ty tư nhân ngày càng tham gia tích cực trong việc nghiên cứu và phát triển lúa lai, đầu tư ngày càng nhiều trong việc kinh doanh hạt giống lúa lai. Việc chuyển dịch từ nghiên cứu kinh điển sang thương mại cần thiết có sự hợp tác chặt chẽ giữa bộ phận nhà nước và tư nhân để không ngừng cải tiến và thương mại hóa lúa lai cho nông dân. Các công ty giống của bộ phận tư nhân đã có tiến bộ đáng kể trong việc tổ chức sản xuất, chế biến và tiếp thị hạt giống trên diện rộng, là những lĩnh vực là IRRI và các cơ quan nghiên cứu không thể vươn tới. Những cơ quan này tập trung vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học, tổ chức đánh giá các cặp lai, phát triển quỹ gien, phát triển kỹ thuật và xây dựng cơ sở vật chất. Kết hợp 2 thế mạnh của bộ phận nhà nước và tư nhân sẽ giúp cho lúa lai phát triển ngày càng bền vững

Hiện nay Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI tập trung vào lĩnh vực
- Đẩy mạnh nghiên cứu các dòng lai chuyên biệt như tăng năng suất và tính ổn định năng suất của ruộng giống. Tăng tính chống chịu điều kiện khắc nghiệt và chất lượng hạt gạo.
- Tăng cường nguồn vật liệu lai, gửi đánh giá cũng như nhận thông tin phản hối từ nguồn đa dạng di truyền của các nước trong mạng lưới đánh giá quốc tế
- Xây dựng hệ thống thông tin tốt hơn, bao gồm các kỹ thuật canh tác để phát huy hết tiềm năng năng suất, đánh giá các cặp/giống lai, áp dụng công nghệ sinh học và các rb- kỹ thuật di truyền về lúa

Trong các năm qua, những thành viên của Hiệp hội phát triển lúa lai quốc tế họp lệ thường niên tại IRRI. Họ thảo luận và thống nhất giải quyết những trở ngại trong phát triển lúa lai, những trở ngại trong bộ phận nhà nước và tư nhân để tạo cơ chế hợp tác bền vững

Trung Quốc là nước phát triển lúa lai nhất thế giới. Đến năm 2010, diện tích lúa lai Trung Quốc lên 20 triệu ha, chiếm 70% diện tích canh tác lúa, đến năm 2005 đã đưa ra 210 giống lúa lai, đã góp phần đưa năng suất lúa của Trung Quốc từ 4,32 tấn/ha của năm 1979 lên 6,58 tấn/ha năm 2009, trong khi năng suất lúa trung bình của thế giới chỉ có 3,74 tấn/ha (FAOSTAT 2011).

Để đạt thành tựu trên, họ xây dựng lúa lai dựa trên 3 giai đoạn
- Giai đoạn 1970-1995: giai đoạn phát triển lúa lai 3, sử dụng giống bất dục đực từ dòng lúa hoang Oryzae rufipogon. Giống này phát triển trên diện tích 12,4 triệu ha và đạt năng suất 6,9 tấn/ha
- Giai đoạn 1996-2000: Phát triển giống giống lúa lai kép bằng cách phun hóa chất gây bất dục đực lên cây mẹ (chemical hybridizing agents CHAs). Giống lai kép phát triển diện tích 2,8 triệu ha, năng suất đạt 10,25 tấn/ha. cao hơn giống lai ba 20%. Trong cùng thời gian khởi động chương trình siêu lúa lai
- Giai đoạn 2001-2006 Phát triển chương trình siêu lúa lai bộ kỹ thuật lai đơn. Những giống lúa lai này cho năng suất 12,5 tấn/ha trên diện rộng. Trên diện hẹp có cặp lai P64S/E32 cho năng suất kỷ lục 17,1 tấn/ha.



Hình 1 Giống siêu lúa lai ở Trung Quốc cho năng suất trên 12 tấn/ha

- Giai đoạn 2007-2015: Tiếp tục chương trình siêu lúa lai với mục tiêu đạt năng suất 13,5 tấn/ha trên diện rộng, trên diện hẹp tạo ra giống lai có năng suất 24 tấn/ha
Để đạt mục tiêu trên các nhà di truyền lúa Trung Quốc tập trung
- Cải thiện kiểu hình lúa bằng cách tạo giống lúa có phiến là dày, thăng để tăng hiệu suất quang hợp. Thân cứng, chống đổ ngã.Bông dài, to, mang nhiều hạt để mỗi bông nặng ít nhất 6g, với mật độ 250 bông/m2 sẽ có tiềm năng 18 tấn/ha
- Tăng mức độ ưu thế lai bằng cách lai chéo giữa các dòng lúa khác nhau. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ ưu thế lai theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là: indica/japonica > indica/javanica >japonica/javanica> indica/indica > japonica/japonica. Như vậy lấy giống lúa Oryzae indica làm mẹ tiếp nhận phấn lúa của giống Oryzae japonica sẽ phát huy ưu thế lai tối đa, nâng hiệu sớm tích lũy chất khô trên 90g/ngày, số hạt/cây trên 3.200 hạt, tăng tỷ lệ hạt chắt.
- Áp dụng các thành tựu của công nghệ sinh học như kỹ thuật nuôi cấy túi phấn, marker phân tữ để tăng chất lượng hạt gạo và tính kháng sâu bệnh


Hình 2: Cải thiện dạng hình siêu lúa lai để cho năng suất trên 17 tấn/ha (hình đầu trang)

Với sự trợ giúp của quốc tế, diện tích lúa lai Việt Nam 600.000 ha, chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc, năng suất 6,0-6,3 tấn/ha, cao hơn giống lúa thuần. Các dòng lai giữa Indica và Japonia đều cho năng suất trên 9 tấn/ha (bảng 1)

Bảng 1: Năng suất của một số dòng siêu lúa lai có triển vọng tại tỉnh Hà Tây, vụ xuân năm 2008 (Nguyễn Trí Hoan 2009)



Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã lai tạo ra Việt Lai 20 vào năm 2004 đã được công nhận là giống quốc gia đầu tiên của Việt Nam. Từ đó đến nay, có nhiều giống lúa lai khác được ra đời như TH3-3, TH5-1, TH 3-4 và Việt Lai 24, những giống này cũng đã được công nhận là giống quốc gia và đang được sản xuất trên diện tích hàng chục nghìn héc-ta là những thành công ban đầu của canh tác tự lai tạo và sản xuất hạt giống lúa lai tại Việt Nam.

Tài liệu tham khảo
- L. P. Yuan 2009. Progress in Breeding of Super Hybrid Rice. IRRI
- Nguyễn Trí Hoan 2009. Progress in research and development of hybrid rice in Vietnam. IRRI
- Nguyễn Văn Ngưu 2009. Ensuring food security in the 21st century with hybrid rice: issues and challenges. IRRI
- Cheng S-H, Cao L-Y, Zhuang J-Y, Wu W-M, Yang S-H, Zhan X-D 2009 Breeding strategy of hybrid rice in China. IRRI

Nguồn: Nguyễn Phước Tuyên 2011. Những tiến bộ sản xuất lúa lai trên thế giới. Trong sách: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia 2011. Sản xuất và cung ứng lúa giống các tỉnh phía Nam. Diễn đàn Khuyến Nông @ Nông nghiệp lần thứ 5. PGS.TS. Mai Thành Phụng (chủ biên), Ths. Phạm Văn Tình, KS. Vũ Tiết Sơn. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, trang 53-56. Hoàng Long biên tập mạng và post tại các trang NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC, FOOD CROPS theo bản email trực tiếp từ PGS.TS. Mai Thành Phụng

NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC, FOOD CROPS

Triển vọng canh tác lúa Nhật cho các nước châu Á



CÂY LƯƠNG THỰC. Việc lai tạo giữa giống lúa tiên Indica vùng nhiệt đới với giống lúa cánh Japonica vùng cận nhiệt đới và ôn đới đã tạo nên những đột phá nâng cao năng suất lúa, tăng tính chống chịu lạnh, kháng bệnh cháy lá, cháy bìa lá, khô vằn, cải thiện cây lúa vàng lá sớm, hình dạng hạt gạo, độ dẻo, hóa hồ và các đặc tính khác. Cuộc cách mạng xanh bắt đầu bằng giống lúa IR8 là kết quả của lai tạo giữa giống Japonica của Trung Quốc là Dee-geo-woo-gen với giống Peta của Indonesia. Kết quả đã làm tăng năng suất lúa từ 2-3 tấn/ha lên 8-10 tấn/ha. Tại Hàn Quốc, việc phổ biến giống lúa cao sản Tongil là kết quả của lai tạo giữa giống lúa Japonica và Indica đã giúp Hàn Quốc thành công trong tự túc lương thực từ năm 1972. Hiện các dòng lai Japonica thích nghi với điều kiện nhiệt đới đang được Viện Nghiên cứu Lúa Quốc tế (IRRI) và Hàn Quốc phát triển theo hướng cải thiện năng suất, dạng hình cây lúa, chống đổ ngả, kháng sâu bệnh chính, chống chịu được điều kiện môi trường khắc nghiệt. IRRI gần đây đã phóng thích hai giống gạo tròn nhiệt đới Japonica mang tên IRRI 142 (NSIC Rc170) và IRRI 152 (NSIC Rc220) để canh tác trên diện rộng. Các giống lúa này mang đầy kỳ vọng giúp nông dân Philippines đạt lợi nhuận cao hơn, và nhất là giúp người tiêu dùng có thể thưởng thức được gạo Nhật với giá rẻ; đồng thời cũng mở ra triển vọng lớn đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.

TRIỂN VỌNG CANH TÁC LÚA NHẬT CHO CÁC NƯỚC CHÂU Á

ThS. Nguyễn Phước Tuyên
Sở Nông nghiệp - PTNT Đồng Tháp

Lúa là lương thực chính của các nước châu Á. Nó đã đi vào văn hóa của nhiều dân tộc, do có khẩu vị và sở thích ăn loại cơm khác nhau. Trong khi dân Đông và Đông Nam Á thích loại gạo hạt dài như Basmati, Jasmine thì các nước Đông Bắc Á lại thích loại gạo tròn. Gạo tròn chỉ thích hợp trồng ở vùng ôn đới. Những nước ăn gạo hạt tròn thường thuộc những nước phát triển và sản xuất không đủ, do đó họ sẳn sàng trả tiền cao để mua loại gạo này.

Điều này trong thời gian tới có thể thay đổi, Viện Nghiên cứu lúa Quốc tế IRRI gần đây đã phóng thích hai giống gạo tròn nhiệt đới Japonica được phóng thích ở Philippines, đó là hai giống NSIC Rc170 hay IRRI 142 và NSIC Rc220 hay IRRI 152 để canh tác trên diện rộng. Các giống lúa này mang đầy kỳ vọng giúp nông dân Philippines đạt lợi nhuận cao hơn, và nhất là giúp người tiêu dùng có thể thưởng thức được gạo Nhật với giá rẻ, đồng thời cũng mở ra triển vọng lớn đối với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long

1.Thích nghi nhiệt đới của giống lúa Nhật

Chương trình lai tạo giống Japonica để thích nghi vùng nhiệt đới của IRRI bắt đầu năm 1991 với sự hợp tác của Hàn Quốc nhằm tạo ra giống lúa Japonica năng suất chất lượng cao. Với điều kiện của nhiệt độ cao ở vùng nhiệt đới, hầu hết các giống lúa Japonica này đều bị lùn, nở bụi kém, bông nhỏ và trổ sớm vì chúng nhạy cảm với ngày ngắnn0 cho năng suất rất thấp.

Trong giai đoạn đầu của chương trình lai tạo, hàng năm các nhà khoa học đều sử dụng nguồn giống lai từ nguồn quỷ gene của Hàn Quốc (Korean Seed Multiplication Project’s nursery, germplasm) để xem giống nào thích nghi với khí hậu nhiệt đới của Philippines, ít nhạy cảm với thời gian chiếu sáng dài và nhiệt độ cao, thời gian sinh trưởng không rút ngắn lại khi đưa từ Hàn Quốc sang Philippines

Giống phóng thích đầu tiên tại Philippines là NSIC Rc170 hay IRRI 142, còn gọi là MS11, được phóng thích vào năm 2008. MS11 là tổ hợp lai từ 2 giống của Hàn Quốc là Jinmibyeo và Cheolweon 46. Giống Jinmibyeo cho chất lượng gạo tốt trong khi giống Cheolweon 46 kháng mạnh sâu bệnh vùng nhiệt đới. MS11 là giống hơi thấp dàn (90 cm), chính sớm (112 ngày) và mang đầy đủ đặc điểm của giống lúa Nhật Japonica như dạng hạt trùn, rất dẽo (hàm lượng amylose 15.5%), nhiệt độ trở hồ thấp. Trong 3 năm thử nghiệm vụ Hè thu tại Philippines. Giống MS11cho năng suất bình quân 4,5 tấn/ha, tỷ lệ xay xát và gạo nguyên lần lượt là 70 và 61%.

Giống lúa Japonica thứ hai được phóng thích tại Philippines vào năm 2009 là NSIC Rc220 hay IRRI 152, còn được gọi là Japonica1, cũng là giống lúa thấp dàn (89 cm), chính sớm (109 ngày), thuộc nhóm giống cao sản. Sau 3 vụ nhân giống và khảo nghiệm cho thấy năng suất của nó cao hơn giống MS11 khoảng 25%, phẩm chất của nó được đánh giá là cao hơn giống Koshihikari, là giống lúa được trồng phổ biến ở Nhật Bản

2.Vai trò của Japonica trong cải thiện năng suất chất lượng lúa
Các giống japonica đóng vai trò quan trọng trong nâng cao năng suất lúa. Cuộc cách mạng xanh bắt đầu bằng giống lúa IR 8 là kết quả của lai tạo giữa giống Japonica của Trung Quốc là Dee-geo-woo-gen với giống Peta của Indonesia. Kết quả đã làm tăng năng suất lúa từ 2-3 tấn/ha lên 8-10 tấn/ha. Hơn nữa, tại Hàn Quốc, việc phổ biến giống lúa cao sản Tongil là kết quả của lai tạo giữa giống lúa Japonica và Indica đã giúp Hàn Quốc thành công trong tự túc lương thực từ năm 1972

Bên cạnh đó, các giống Japonica còn được sử dụng rộng rãi trong việc tăng tính chống chịu lạnh, kháng bệnh cháy lá, cháy bìa lá, khô vằn, dạng hình cây lúa, vàng (lão hóa) lá sớm, cải thiện hình dạng hạt gạo, độ dẻo, hóa hồ và các đặc tính khác.

Hiện các dòng lai Japonica thích nghi với điều kiện nhiệt đới đang được IRRI và Hàn Quốc phát triển theo hướng cải thiện năng suất, dạng hình cây lúa, chống đổ ngả, kháng sâu bệnh chính, chống chịu được điều kiện môi trường khắc nghiệt

3.Phát triển khẩu vị gạo Nhật
Sau khi phổ biến 2 giống lúa Nhật Japonica tại Philippines, đặc biệt cho người ở nông thôn và thế hệ trẻ có cơ hội thưởng thức gạo Nhật với giá phải chăng. Các nhà hàng khách sạn của Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc sẽ không phải nhập gạo từ nước họ để đáp ứng thị hiếu khách hàng. Điều quan trọng nhất là nông dân sẽ được lợi khi http://www.blogger.com/img/blank.giftrồng các giống lúa Nhật này.

Theo thông tin tỉnh An Giang, năm 2009, 4 huyện Châu Thành, Châu Phú, Phú Tân và Thoại Sơn xuống giống 486 ha lúa Nhật do Công ty TNHH Angimex – Kitoku đầu tư sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo hợp đồng, với giá từ 7.100đ đến 7.400đ/kg, trong đó có phần hỗ trợ bơm nước ra 100đ/kg. Dù năng suất cao nhưng các giống Hana, Akita và Koshi đều là giống ôn đới nên cho năng suất thấp. Hy vọng các nhà khoa học Việt Nam sớm nhận các giống lúa Nhật cải tiến của IRRI để phát triển diện tích canh tác giống này nhằm cung cấp cho các nhà hàng khách sạn phục vụ cho khách Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan

Giống lúa Nhật MS11 tại Philippines
http://www.blogger.com/img/blank.gif
Tài liệu tham khảohttp://www.blogger.com/img/blank.gifhttp://www.blogger.com/img/blank.gif
Kyung Ho Kang, 2010. Made for the tropics. Rice Today April-June 2010. Intehttp://www.blogger.com/img/blank.gifrnational Rice Research Institute. LosBanos Philippines


Nguồn: Nguyễn Phước Tuyên 2011. Triển vọng canh tác lúa Nhật cho các nước châu Á. Trong sách: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia 2011. Sản xuất và cung ứng lúa giống các tỉnh phía Nam. Diễn đàn Khuyến Nông @ Nông nghiệp lần thứ 5. PGS.TS. Mai Thành Phụng (chủ biên), Ths. Phạm Văn Tình, KS. Vũ Tiết Sơn. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, trang 57-58. Hoàng Long biên tập mạng và post tại các trang NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC, FOOD CROPS theo bản email trực tiếp từ PGS.TS. Mai Thành Phụng

NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC, FOOD CROPS

11/8/11

Thành tựu và giới hạn của việc áp dụng giống lúa cao sản ở ĐBSCL



CÂY LƯƠNG THỰC. PGS.TS. Phạm Văn Dư, ThS. Lê Thanh Tùng 2011 với bài viết "Thành tựu và giới hạn của việc áp dụng giống lúa cao sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long" đã khái quát thông tin về: Thành tựu của Cách mạng xanh từ năm 1961 đến 2000; Nhập nội, nghiên cứu phát triển các giống lúa mới ở ĐBSCL; Tình hình thặng dư lương thực dành cho xuất khẩu; Thành tựu và giới hạn của việc sử dụng giống lúa cao sản ở ĐBSCL. Bài báo nhấn mạnh: "Việc sử dụng giống lúa cao sản ngày nay đã giúp Việt Nam tiến rất xa trong canh tác thâm canh so với các nước trong khu vực. Rất nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng giúp nông dân nâng cao dần năng suất qua các phương thưc sản xuất mới"."Những vấn đề lớn cần suy nghĩ là: Việc bảo tồn tài nguyên tính đa dạng sinh học của giống lúa; Sự thu hẹp và mất dần các vùng sinh thái tự nhiên; Sự thay đổi về di truyền học tính kháng, tương tác ký sinh và ký chủ. Sự thay đổi về môi trường đất trồng lúa, ô nhiễm nguồn nước sạch, tài nguyên thủy sản; Chín tồn tại căn bản cần cải thiện về mặt kỹ thuật của hệ thống sản xuất và cung ứng giống lúa". Tác giả đã nhấn mạnh bốn giải pháp chính: "1)Cần xây dựng quy trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP) cho sản xuất lúa, trước mắt là VietGAP nhằm từng bước bảo đảm được chất lượng đã cam kết và đang được đòi hỏi trên thị trường thế giới. 2) Thực hiện chuyên canh trên quy mô tương đối lớn để bảo đảm chất lượng được nâng cao và duy trì ổn định, bảo đảm khả năng giao một lượng sản phẩm tương đối lớn trong thời hạn tương đối ngắn, theo kịp yêu cầu của thị trường.... 3) Cần có những dự án được kết hợp thành những chương trình mục tiêu, thực hiện một cách kiên trì và nhất quán để đạt được những tiến bộ rõ rệt trong thời gian ngắn. Động lực thị trường có thể sẽ giúp người nông dân tiếp cận nhanh hơn với các phương pháp và tác phong canh tác mới, từ bỏ cách làm ăn cũ, tư duy và tác phong cũ không còn thích hợp. 4) Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa." Đây là những vấn đề thực sự quan trọng và cấp thiết để phát triển sản xuất lúa gạo, góp phần nâng cao thu nhập và đời sống cho nông dân Việt Nam.


THÀNH TỰU VÀ GIỚI HẠN CỦA VIỆC ÁP DỤNG GIỐNG LÚA
CAO SẢN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG


Phạm Văn Dư, Lê Thanh Tùng

Thành tựu của Cách mạng xanh từ năm 1961 đến 2000

Những thành quả mà cuộc cách mạng xanh (CMX) nói chung đã mang lại cho thế giới trong đó bao gồm việc cải thiện công tác giống (74%), mở rộng mạng lưới tưới tiêu tăng gấp 2 lần (x2), sử dụng phân bón và thuốc hóa học tăng gấp 35 lần (x35), cơ giối hóa tăng gấp 25 lần (x25) trong hơn bốn thập niên qua (1961-2000)…Giá thực phẩm đã giảm 40% tạo thuận lợi cho người tiêu dùng và nhất là người nghèo. Người thiếu dinh dưỡng cũng giảm dần từ 35 % trong thập niên 1970 đến 17% năm 2000-2002. Chỉ riêng khu vực châu Á hơn 962 triệu tấn lương thực được sản xuất (2000), như vậy riêng lương thực đã tăng 300 % so với 309 triệu tấn trong năm 1961 (Source: FAOSTAT, July 2002 and Dr. Borlaug’s estimated on modern variety adoption, based on CIMMYT and IRRI data)

Từ năm 2008 đến nay, tinh hình giá cả lương thực gia tăng gắp nhiều lần bên cạnh sự gia tăng dân số trong khu vực và trên thế giới, câu hỏi đang đặt ra hiện nay là chúng ta có cần một cuộc CMX nửa hay không? Điều chắc chắn rằng trong 40 năm tới, dân số gia tăng và phải thêm 70% sản lượng lương thực cho năm 2050. FAO ước tính rằng việc gia tăng lương thực trong những thập niên tới chủ yếu ở khu vực các quốc gia đang phát triển là tăng năng suất và tăng vụ (80%), còn lại khoảng 10% có thể mở rộng diện tích, vì nguồn tài nguyên đất lúa hiện nay đang giảm dần.

Vai trò của cách mạng xanh mang lại cho thế giới một lượng lương thực đáng kễ, tuy nhiên những hệ quả mang lại cho môi trường là chưa thể tính toán được, ý thức ham muốn đầu tư cho nông nghiệp cũng giảm dần, thể hiện rõ ở rất nhiều quốc gia trên thế giới. Trong bối cảnh an ninh lương thực khó khăn như hiện nay, yêu cầu trước mắt là tự cung tự cấp nhằm tránh lệ thuộc nhiều vào lương thực nhập khẩu. Nhiều quốc gia vẫn chưa hội đủ các yếu tố để phát triển lương thực theo hướng CMX trong khi dân số của quốc gia tăng. Riêng về sản xuất lúa, cần xem xét một số các yếu tố như (i) chính sách lúa gạo hữu hiệu, (ii) phát triển thủy lợi, (iii) cung cấp đầy đủ giống lúa năng suất cao, ngắn ngày và (iv) đầy đủ phân và thuốc hóa học trên thị trường.

Trong số các quốc gia sản xuất và xuất khẩu lương thực, Việt Nam có sản lượng gạo xuất khẩu đứng hàng thứ hai trên thế giới. Năm 2010, lượng gạo xuất khẩu 6,8 triệu tấn trong đó hơn 50% cho các nước trong khu vực Châu Á, còn lại hơn 26 % là Châu Phi và một số các quốc gia khác. Lúa gạo xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu sản xuất ở đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài lúa còn rất nhiều sản phẩm nông nghiệp có giá trị xuất khẩu khác như thủy sản (cá, tôm), cây ăn trái, chăn nuôi gia cầm..

Nhập nội, nghiên cứu phát triển các giống lúa mới ở ĐBSCL

Sự nhập nội các giống lúa mới

Từ rất sớm khoảng tháng 5 năm 1966, Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa (nay trở thành Viện Cây Ăn Quả) ở Long Định, Tiền Giang thuộc Bộ Canh Nông Miền Nam đã nhận được 10 kg lúa giống IR8 để trồng thử nghiệm đầu tiên trên 2.000 m2 vào mùa mưa. Trong mùa ấy, năng suất của lúa IR8 thu hoạch được 4 t/ha so với năng suất bình quân của lúa cổ truyền 2 t/ha.

Đồng thời, trường Cao Đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn nhận được 1kg giống IR8 từ IRRI để trồng trong một thí nghiệm về ảnh hưởng của quang cảm (photoperiodism) cùng chung với một số giống lúa địa phương tuyển chọn của Miền Nam. Kết quả thí nghiệm được báo cáo vào mùa hè 1967 qua một Luận trình mãn khóa (Trần Văn Đạt, 1967). Trong thí nghiệm này, năng suất tiềm năng của giống lúa IR8 được theo dõi và đánh giá cao trong khi so sánh với các giống lúa được tuyển chọn khác.

Nhờ kết quả khích lệ trên và nhu cầu lúa gạo cấp bách thời bấy giờ, Bộ Canh Nông đặc biệt chú ý đến giống lúa IR8 và quyết định phát triển canh tác đại trà trong khi vẫn còn trồng thí nghiệm theo dõi tại Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa ở Long định, các Trại thí nghiệm lúa ở Miền Trung và Miền Nam, Viện Khảo Cứu Nông Nghiệp và trường Đại học Cần Thơ, qua sự hợp tác với IRRI ở Philippines. Có thể nói Việt Nam là một trong những nước tiên phong trong công cuộc Cách Mạng Xanh trên thế giới.

Vào giữa năm 1967, trong chương trình hợp tác với Cơ quan phát triển quốc tế của Mỹ (USAID), độ 6 tấn lúa giống IR8 có năng suất cao và ngắn ngày, được du nhập khá khó khăn vào Việt Nam (vì thỏa hiệp giữa IRRI và chính phủ Philippines không cho phép IRRI xuất khẩu một số lượng lúa lớn dù là hạt giống) để tái canh trên 300 ha ruộng vào mùa nắng (Đông-Xuân) tại Võ Đắt, tỉnh Bình Tuy, sau khi vùng này bị lũ lụt và vụ lúa bị thiệt hại nặng nề. Vì lúa IR8 được trồng hơi muộn lại thiếu nước, chỉ có khoảng 40 ha lúa được thu hoạch với năng suất bình quân 2 t/ha. Tất cả số lượng lúa sản xuất được tại Vỏ Đắt, độ 80 tấn, được Bộ Canh Nông thu mua làm giống và gởi trồng nhân giống tại 33 tỉnh của Miền Nam vào mùa mưa 1968. Sau đó, lúa IR8 được nông dân tự nhân giống hoặc được Sở Lúa Gạo thu mua qua quỹ luân chuyển để phân phối cho các vùng khác trồng vào mùa nắng (Đông-Xuân) của năm 1969.

Cho nên, trong vụ mùa 1968-69, 23.373 ha lúa IR8 đã được thu hoạch với năng suất bình quân 4t/ha và giống lúa IR8 được đặt tên là Thần Nông 8 (TN8) . Mùa lúa 1968-69 là thời gian bắt đầu phổ biến mạnh mẽ của chương trình “Tăng gia sản xuất lúa Thần Nông” được Sở Lúa Gạo thuộc Bộ Canh Nông thực hiện đại qui mô qua mô hình “mini kit” của Philippines: Mỗi nông dân trồng lúa TN (lần đầu tiên) được cung cấp một gói nhỏ (mini kit) gồm lúa giống TN8, phân hóa học và thuốc sát trùng diazinon.

Sau đó, IR5, rồi IR20, IR22 được du nhập thử nghiệm và phổ biến qua chương trình hợp tác với IRRI. Diện tích trồng lúa Thần Nông tiếp tục bành trướng mau lẹ. Theo báo cáo của Viện Thống Kê Quốc Gia, vào vụ mùa 1969/70, lúa cải thiện được trồng trên 204.000 ha hoặc độ 30% diện tích tưới tiêu, 452.100 ha vào 1970/71, 674.740 ha vào 1971/72, và 835.000 ha vào 1972/73. Đến vụ mùa 1973-74, diện tích lúa cải thiện (IR8, IR5, IR20, IR22, TN 73-1 và TN 73-2) chiếm độ 32% hay 890.000 ha với năng suất bình quân 4 t/ha và sản lượng của lúa Thần Nông chiếm 53% tổng sản lượng lúa Miền Nam. Vào vụ mùa 1974/75, tổng sản lượng lúa gạo miền Nam uớc độ trên 7 triệu tấn lúa. (Trần Văn Đạt)
Nghiên cứu, phát triển các giống lúa mới sử dụng nguồn gen địa phương

Sau năm 1975, một số Viện nghiên cứu và trường Đại học cũng tham gia nghiên cứu và phát triển các giống lúa mới cho ĐBSCL như Trường Đại Học Cần Thơ, Viện Khoa Học Nông Nghiệp Miền Nam hợp tác với Viện nghiên cứu lúa Quốc Tế (IRRI), một số tập đoàn giống lúa mới từ Philippines được khảo sát và đánh giá dựa trên tính chống chịu sâu bệnh, năng suất của giống với các điều kiện thổ nhưỡng của ĐBSCL.

Năm 1977, Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL đã được thành lập tại huyện Ô Môn. Tỉnh Hậu Giang (Cần Thơ) (tên gọi ban đầu là Trung Tâm Kỹ Thuật Nông Nghiệp ĐBSCL). Hiện nay, các giống lúa mới do Viện nghiên cứu lúa, trường Đại học đóng góp cho sự gia tăng sản lượng đáng kễ, chiếm 53% sản lượng cả nước, trong số đó hơn 80% giống lúa trồng hiện nay ở ĐBSCL từ Viện nghiên cứu lúa ĐBSCL (Ô Môn).

Mục đích lai tạo giống lúa mới

Đồng bằng sông Cửu Long, từng bước đã phát triển phương thức canh tác thâm canh, tăng vụ sản xuất lúa trong năm (3 vụ/năm; 2 năm 7 vụ). Do vậy công việc tạo giống phải tập trung về năng suất cao, ngắn ngày, và ngon cơm. Ngoài ra phải chống chịu được với một số sâu bệnh hại chính cho cây lúa như bệnh bạc lá, cháy lá, virus và rầy nâu, chống chịu với một số điều kiện của môi trường khó khăn như: hạn, măn, phèn và gần đây là giống có chứa hàm lượng vitamine A và Fe. Danh sách giống lúa phóng thích ở ĐBSCL từ 1986 đến 2006

Bảng 1: Danh sách giống lúa mới phóng thích từ năm 1986-2006 có nguồn gốc nhập nội và lai tạo từ các Viện Trường vùng ĐBSCL

STT Tên giống (Nguồn gốc/ cặp lai)
1 NN 4B (IR 42)
2 NN 5B (IR 48)
3 OM 89 (IR 64)
4 OM 80 (IR 36 / IR 5853-229)
5 OM 86-9 (IR 21015-80-3-3-2)
6 IR 66 (IR 66)
7 OM 576-18 (Hungary / IR 48)
8 OM 597 (IR 48 / IR 19735-5-2-3-2)
9 IR 19660 (IR 19660)
10 OM 90-2 (IR 44595-70-2-2-3)
11 OM 90-9 (IR 35546-17)
12 IR 29723 (IR 29723)
13 OM 269-65 (IR 32843 / NN 6A)
14 IR 49517-23 (IR 49517-23)
15 OM 997-6 (Colombia / IR 64)
16 OM 723-7 (IR 2307-247-2-2-3 / A69-1)
17 KDM 105 (Thailand)
18 OMCS 94 (IR 59606)
19 OM 1589 (IR 36 / IR 50)
20 OMCS 95-5 (OMCS 6 / IR 68)
21 IR 62032 (IR 62032)
22 OM Fi1 (MRC 19399)
23 TN 108 (Tai Nguyen*)
24 OM 1706 (OM 90 / OM 33)
25 Tai Nguyen (Tai Nguyen*)
26 OM 1490 (OM 606 / IR 44592)
27 OM 1723 (OM 554 / IR 50401)
28 OM 1633 (IR 2307-247-2-2-3 / IR32893)
29 OM 2031 (Lua Thai Lan / Bong Huong)
30 CM 16-27** (Norin 12 / OM 987)
31 OMCS 2000 (OM 1723 / MRC 19399)
32 AS 996 (IR 64 / O. rufipogon)
33 OM 1348-9 (IR 42 / OM 736)
34 OM 2395 (IR 63356-6B / TN1)
35 OM 3536 (TD 8 / OM 1738)
36 OM 1352 (IR 42 / OM 80)
37 DS 20 (Taiwan)
38 OM 2717 (OM 1738 / Tai Nguyen DB 100)
39 OM 2718 (OM 1738 / Mong Chim Roi DB)
40 OM 2514 (OM 1314 / Nep mat troi)
41 OM 2517 (OM 1325 / OMCS 94)
42 OM 4495 (IR 64 / OM 1706//IR 64)
43 OM 4498 (IR 64 / OMCS 2000//IR 64)
44 IR 50404 (IR 50404-57-2-2-3)
45 KSB 54 (IR 18189-2-3-2 / IR 36)
46 KSB 218-11-1 (IR 32439-112-3 / IR 8423)
47 KSB 55 (IR 64 / IR 8423)
48 VND 95-19 (IR 64 *)
49 VND 95-20 (IR 64*)
50 MTL 233 (IR 65610-24-3-6-3-2-3)
51 MTL 250 (IR 68077-64-2-2-2-2)

* (đột biến) mutation ** (nuôi cấy mô) anther culture


Từ năm 2006 đến nay, rất nhiều giống đã được phóng thích, phẩm chất đạt tiêu chuẩn xuất khẩu

Nhìn chung, bộ giống lúa chủ lực (những giống có diện tích sản xuất trên 50.000 ha/ năm) ở Nam Bộ năm 2010 vẫn ổn định và tiếp tục giữ vai trò chủ đạo trong những năm tới. 10 giống lúa đứng đầu về diện tích sản xuất ở Nam Bộ gồm: OM 2517, VNĐ95-20, Jasmine85, OM 576, OM 2514, OM 2717, OM 4218, IR50404, OM CS2000 và ML 48. Ngoài ra trong năm 2010, chương trình chọn tạo phát triển giống lúa mới của các cơ quan nghiên cứu được đẩy mạnh; công tác khảo nghiệm và sản xuất thử các giống lúa được thực hiện mạnh mẽ và đồng bộ ở các địa phương; trên cơ sở đó Bộ Nông nghiệp và PTNT đã công nhận được nhiều giống lúa mới cho sản xuất rộng Nam Bộ như OM 4218, OM 4088, OM 5472, OM 6162, OM 6161, PHB71 (6 giống công nhận chính thức), và các giống OM 6377, OM 5981, OM CS2009, OM 6071, OM 5629, OM 6600, OM 6877, OM 5954, OM 4101, OM 6072, OM 5451, OM 5464, OM 8923, ML214, Nàng Hoa 9 (15 giống công nhận cho sản xuất thử); đây là cơ sở quan trọng để xây dựng cơ cấu giống lúa cân bằng và chủ động trong vùng.

Năng suất và sản lượng lúa ở ĐBSCL



Hình 01: Năng suất và sản lượng lúa ở ĐBSCL từ năm 2000-2010

Năng suất và sản lượng lúa ở ĐBSCL đã gia tăng theo từng năm từ năm 2000 sản lượng chỉ hơn 16 triệu tấn cho đến năm 2010 là 21,5 triêu tấn. Trong khi đó năng suất bình quân tăng hơn 1,0 tấn (Hinh 01).

Theo số liệu điều tra năm 2007, của Trung tâm khảo kiểm nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân bón Quốc gia vùng Nam bộ.

Tổng diện tích giống địa phương sản xuất trong ba vụ khá thấp, chỉ đạt 201.873 ha (chiếm 5,68%). Vụ Mùa có tỷ lệ giống địa phương cao nhất (119.249 ha/ 22,74%); Vụ Hè Thu có diện tích và tỷ lệ giống địa phương thấp nhất (27.729 ha/ 1,85%); diện tích lúa địa phương trong vụ Đông Xuân là 54.895 ha (3.65%).

Diện tích giống cải tiến

Giống lúa cải tiến chiếm vị trí chủ đạo trong cả ba vụ lúa ở ĐBSCL với tổng diện tích là 3.113.533 ha (87,57%); trong đó vụ Hè Thu có diện tích và tỷ lệ giống cải tiến cao nhất là 1.394.093 ha (91.28%), tiếp theo là vụ Đông Xuân với 1.341.761 ha (89.22%), và vụ Mùa là 377.679 ha (72.02%). So với kết quả điều tra giai đoạn 2003/ 2004 thì tỷ lệ giống địa phương và giống cải tiến ở ĐBSCL không có sự thay đổi đáng kể.

Trong quá trình điều tra, diện tích các giống lúa không xác định được tên gọi (giống khác) được tổng hợp là 107.211 ha (7.13%) trong vụ Đông Xuân, 105.438 ha (6.90%) trong vụ Hè Thu và 27.515 ha (5,25%) trong vụ Mùa. Phần lớn diện tích “giống khác” thuộc nhóm giống cải tiến, nên tổng diện tích giống cải tiến thực tế đạt khoảng 3.330.000 ha (93,65%) và giống lúa địa phương chỉ chiếm khoảng 6,35%.

Phân nhóm diện tích giống lúa theo nguồn gốc

Giống cải tiến lai tạo trong nước

Giống lúa cải tiến lai tạo trong nước chiếm vị trí chủ yếu trong sản xuất lúa ở ĐBSCL. Tổng diện tích giống lai tạo trong nước áp dụng trong 3 vụ năm 2007 là 2.136.066 ha (60,98%). Tuy nhiên phần lớn diện tích “giống khác” là giống lai tạo trong nước, nên diện tích và tỷ lệ giống lai tạo trong nước thực tế cao hơn. Diện tích và tỷ lệ giống cải tiến lai tạo trong nước ở vụ Đông Xuân là 906.408 ha (60.27%), vụ Hè Thu là 979.327 ha (64.12%) và vụ Mùa là 250.331ha (47,73%).

Giống nhập nội
Giống nhập nội chủ yếu có nguồn gốc từ IRRI và một số nước khác như Thái Lan, Đài Loan... Diện tích và tỷ lệ giống nhập nội ở ĐBSCL có su hướng tăng nhẹ so với các đợt điều tra trước đây, chủ yếu vì diện tích các giống IR 50404, Jasmine 85, VD 20 tăng đáng kể trong năm 2007 và có thể cả những năm tới. Giống lúa nhập nội giữ vị trí quan trọng trong sản xuất với tổng diện tích cả năm là 977.570 ha (27.49%); trong đó vụ Đông Xuân là 435.353 ha (28.95%), vụ Hè Thu là 414.739 ha (27.16%) và vụ Mùa là 127.478 ha (224,31%).

Phân nhóm giống lúa theo chất lượng

Giống nếp và đặc sản
Nhóm giống lúa nếp và đặc sản (lúa thơm và lúa địa phương) ngày càng được người sản xuất quan tâm và diện tích sản xuất có su hướng tăng do yêu cầu cao của thị trường. Trong năm 2007, tổng diện tích lúa nếp và đặc sản đạt 643.177 ha, chiếm 18,09%. Vụ Đông Xuân có diện tích lúa nếp và đặc sản cao nhất, đạt 266.002 ha (17,69%); vụ Hè Thu đạt 200.678 ha (13.14%), và vụ Mùa là 176.496 ha (33,65%). Các giống nếp và đặc sản và mùa địa phương được sản xuất chủ yếu là Jasmine 85, VD 20, nếp 46-25, nếp 84, Nếp Bè, Tài Nguyên, Nàng Thơm...

Giống cải tiến chất lượng cao
Diện tích giống lúa cải tiến chất lượng cao (hạt thon dài, bạc bụng thấp) chiếm vị trí chủ lực trong sản xuất lúa ở ĐBSCL, đạt 1.778.513 ha (50,30%), điều này phản ánh tiến bộ và thành quả của công tác chọn tạo giống lúa hơn thập kỷ qua ở phía Nam. Vụ Đông Xuân có diện tích và tỷ lệ giống lúa cải tiến chất lượng cao cao nhất là 796.787 ha (52.98%), vụ Hè Thu là 794.543 ha (52.03%); vụ Mùa đạt 197.183 ha (37,60%).

Giống lúa cải tiến chất lượng trung bình – thấp
Giống lúa cải tiến chất lượng trung bình – thấp (hạt gạo hơi ngắn hoặc tỷ lệ bạc bụng cao) có tổng diện tích là 883.715 ha, chiếm 24,85% diện tích lúa cả năm. Diện tích và tỷ lệ giống lúa nhóm này là 333,866 ha (22,20%) trong vụ Đông Xuân; 426.600 ha (27.93%) trong vụ Hè Thu và 123.249 ha (23,50%) trong vụ Mùa. Hai giống lúa có diện tích cao nhất trong nhóm này là IR 50404 và OM 576. Nhìn chung tỷ lệ nhóm lúa này còn khá cao và có thể còn tăng hơn nữa trong năm tới vì diện tích IR 50404 ngày càng tăng và OM 576 được đánh giá ổn định. (Nguyễn Quốc Lý và ctv).

Sản xuất lúa đồng bằng sông Cửu Long trong những năm qua đã có sự thay đổi diện tích, trong giai đoạn 2000-2010, diện tích lúa ĐBSCL thu hẹp 6.000 ha. Riêng trong giai đoạn 2000-2005 diện tích gieo trồng lúa giảm 119.500 ha, sau đó phục hồi lại trong giai đoạn 2005-2010 tăng 113.500 ha. Sự tăng giảm diện tích theo các giai đoạn chủ yếu do: (i) giá cả lúa bấp bênh diện tích tăng, giảm cục bộ trong từng vụ; (ii) sự không ổn định diện tích lúa thu đông và (iii) sự tăng giảm diện tích của vụ lúa mùa (trong đó có vụ lúa trên nền đất nuôi tôm sú)

Năng suất lúa đã và đang được cải thiện một cách đáng kể, năm 2000 năng suất bình quân 4,23 tấn/ha đến năm 2010 năng suất bình quân đạt 5,43 tấn/ha (tăng gần 1,2 tấn/ha) sự tăng năng suất cơ bản là việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nông nghiệp vào sản xuất một cách rộng rãi hơn trong đó quan trọng là sử dụng giống mới, biện pháp ba giảm ba tăng, thu hoạch cơ giới và rút ngắn được khoảng chênh lệch năng suất giữa các hộ trồng lúa

Tình hình thặng dư lương thực danh cho xuất khẩu
Gạo xuất khẩu của Việt nam chủ yếu được sản xuất từ ĐBSCL. Năm 1989, Việt nam bắt đầu thời kỳ xuất khẩu gạo với 1,4 triệu tấn. Thời kỳ 1996 - 2000, Xuất khẩu 3,67 triệu tấn gạo/năm, kim ngạch 900 triệu USD/năm. Thời kỳ 2001-2007, bình quân xuất khẩu 4,18 triệu tấn/năm, kim ngạch 1,03 tỷ USD/năm, tăng 13,8% về lượng và 14,4% về giá trị so với thời kỳ trước. Thị trường gạo xuất khẩu gạo chủ lực của Việt Nam năm 2008 là: Châu Á chiếm 52,70%, Châu Phi 27,21%, Châu Mỹ 11,70% (Cu Ba 11,34%). Xuất khẩu hiện nay có chiều hướng mở rộng thị trường sang khu vực Châu Phi. Xuất khẩu gạo năm 2009 gần 6, 1 triệu tấn. Năm 2010, xuất khẩu gạo của Việt Nam đạt mức kỹ lục là 6,8 triệu tấn. Nhìn chung việc xuất khẩu gạo trong năm 2010 đạt kết quả rất cao, chủ động tồn trử, cân đối được cung cầu trong nước, giá lúa tăng dần vào cuối năm, nông dân ngày càng có lợi nhiều hơn trong sản xuất lúa gạo. Định hướng trong trong những năm tới mở rộng thị trường nhưng vẫn chú ý thị trường Châu Á có tiềm năng lớn vì việc tiến tới tự túc lương thực của các nước khu vực nầy đang còn rất khó khăn như Philippines và Indonesia, ngoài ra ảnh hưởng của biện đổi khí hậu gây nhiều bất lợi cho trồng lúa ở Ấn Độ và Trung Quốc vã lại đây là 2 nước đông dân nhất với nhu cầu trong nước rất cao.
Sản lượng lúa cũng gia tăng mặc dù diện tích trồng lúa có giảm, năm 2000 sản lượng đạt 16,702 triệu tấn nhưng đến năm 2010 sản lượng đã đạt 21,56 triệu tấn (tăng 4,85 triệu tấn) sản lượng tăng vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia vừa đảm bảo tăng sản lượng gạo xuất khẩu hàng năm.

Xuất khẩu gạo năm 2000 đạt 3,5 triệu tấn, đến năm 2010 sản lượng gạo xuất khẩu đạt 6,754 triệu tấn. Giá trị xuất khẩu từ 668 triệu USD năm 2000 đến 2,912 tỉ USD năm 2010 (Hình 02).



Hinh 02: Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo từ năm 2000-2010

Thành công của sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam trong hai thập niên qua do nhiều yếu tố tác động, trong đó “đổi mới” chính sách, mở rộng hệ thống thủy lợi khai thác lúa nước tưới, hướng canh tác vào thâm canh cao, áp dụng nhiều biện pháp kỹ thuật trong sản xuất lúa và sự mở rộng thị trường xuất khẩu gạo đóng vai trò quan trọng.
Vùng ĐBSCL có lợi thế về tài nguyên đất đai, sông ngòi, cũng nh¬ư điều kiện khí hậu thuận lợi. Nhìn chung, sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long có xu hướng gia tăng về năng suất và sản lượng, các yếu tố góp phần cho sự gia tăng này tập trung vào khâu chọn giống lúa và bố trí thời vụ. Các kỹ thuật canh tác (làm đất, bón phân, quản lý nước, bảo vệ thực vật) và biện pháp giảm thất thoát chưa đóng góp nhiều trong việc gia tăng này.

Thành tựu và giới hạn của việc sử dụng giống lúa cao sản ở ĐBSCL

Những thành tựu nỗi bật của việc nhanh chóng ứng dụng giống lúa mới ở Việt Nam đã đóng góp tích cực cho sản xuất, trong đó có giống lúa cho cả nước nói chung là cho đồng bằng sông Cửu Long nói riêng.

i) Việc chọn lọc và lai tạo được bộ giống lúa ngắn ngày, có năng suất và chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh khá, thích ứng rộng với các vùng sinh thái khác nhau, tạo điều kiện đẩy mạnh thâm canh, tăng vụ và chuyển dịch cơ cấu sản xuất có hiệu quả.

ii) Chọn lọc và lai tạo được một số giống cây trồng tốt phục vụ xuất khẩu, điển hình là các giống lúa như Jasmine 85, OM CS 2000, VND 95-20, OM 4900, OM 4218, OM 2517, ST5…. Được sử dụng rộng rãi trong sản xuất lúa xuất khẩu ở đồng bằng sông Cửu Long, đã nâng cao chất lượng gạo xuất khẩu, giảm sự chênh lệch giá xuất khẩu gạo giữa Viêt Nam và Thái Lan (Cục Trồng trọt, 2007).

iii) Bộ giống lúa ngắn ngày đã tạo thuận lợi cho việc thay đổi mùa vụ, tăng vụ, mở rộng diện tích lúa 3 vụ trong năm tại nhiều tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, góp phần lớn vào việc gia tăng sản lượng lúa trong toàn vùng.

iv) Chất lượng giống lúa đã được cải thiện nhờ định hướng nghiên cứu và chọn tạo các giống lúa hạt dài, trong, không bạc bụng, có độ mềm dẽo và thơm nhẹ phục vụ cho xuất khẩu gạo chất lượng cao. Các giống lúa này đã thay thế dần các giống lúa cho năng suất cao nhưng chất lượng gạo thấp.

v) Hiện nay, để thích ứng với biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến sản xuất lúa trong toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long các cơ quan nghiên cứu đã và đang tích cực chọn tạo các giống lúa có chất lượng cao, chống chịu sâu bệnh nhưng cũng phải có khả năng thích ứng với các điều kiện khó khăn như phèn, mặn, khô hạn hay ngập úng. Hướng nghiên cứu này giúp việc canh tác lúa trong những vùng có điều kiện khó khăn được ổn định.

Việc sử dụng giống lúa cao sản ngày nay đã giúp Việt Nam tiến rất xa trong canh tác thâm canh so với các nước trong khu vực. Rất nhiều tiến bộ kỹ thuật đã được áp dụng giúp nông dân nâng cao dần năng suất qua các phương thưc sản xuất mới.

Bên cạnh đó một số vấn đề về canh tác thâm canh đối với môi trường cũng cần được quan tâm suy nghĩ

Tính đa dạng sinh học của giống lúa
Từ những thập niên năm 1930 đến 1960, ở ĐBSCL có vài ngàn giống lúa mùa thích nghi từ lâu đời với các vùng sinh thái khác nhau, các giống lúa mùa thường cao cây, đỗ ngã, năng suất rất thấp từ 1,7 đến 2,5 tấn/ha, có tính chống chịu nhiều loại sâu bệnh, nhưng đối với rầy nâu thì rất nhiễm. Sau khi phát triển các giống lúa mới năng suất cao thì các giống lúa mùa chỉ còn được sử dụng làm nguồn gen trong công tác lai tạo giống lúa mới. Việt nam đã họp tác với Viện nghiên cứu lúa quốc tế IRRI để lưu giữ nguồn gen quí nầy, ngoài ra một số giống lúa vẫn còn được lưu giữ ở các Viện nghiên cứu nông nghiệp và Trường Đại học

Thu hẹp và mất dần các vùng sinh thái tự nhiên
Một số vùng sinh thái tự nhiên như Vùng Lúa nổi ở An Giang, Vùng Tứ giác Long Xuyên, Vùng lúa nước sâu, vùng lúa nước trời, vùng đất phèn Đồng Tháp…Do du nhập các giống lúa ngắn ngày thích nghi với điều kiện tưới tiêu nên phối hợp với hệ thống thủy lợi và đê bao ngăn lũ nên dần dần chúng ta chỉ còn rất ít diện tích của các vùng sinh thái trên, cây lúa nổi hiện còn rất khiêm tốn ở vùng Thoại sơn, vùng lúa tưới hiện nay chiếm hơn 60%, giúp cho thâm canh tăng vụ và tăng sản lượng đáp ứng cho nhu cầu về an ninh lương thực.

Thay đổi về di truyền học tính kháng, sự tương tác ký sinh và ký chủ
Di truyền học tính kháng hay sự tương tác giữa ký sinh và ký chủ có sự thay đổi rất lớn trong hơn 3 thập kỷ qua. Tính kháng của các giống lúa ngắn ngày đối với các loài sâu bệnh hại đều thay đổi. Đối với bệnh cháy lá (Pyricularia griesea), trước đây giống chống chịu bệnh có thể giử tính kháng ổn định từ 5 đến 10 năm như IR 42, IR 48. Từ những năm 2000 cho đến nay, giống mới phóng thích hầu như chỉ chống chịu đươc qua vài vụ. Tính chống chịu của giống đối với rầy nâu (Nilarparvata lugens) là rõ nhất. Do vậy các giải pháp cho phòng chống sâu và bệnh hại lúa hiện nay cần kết hợp nhiều biện pháp thân thiện hơn với môi trường trong đó tính kháng của giống ngày càng giữ vai trò thứ yếu so với những năm trước đây.

Thay đổi về môi trường đất trồng lúa, ô nhiễm nguồn nước sạch, tài nguyên thủy sản

Ảnh hưởng của thuốc hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ, phân bón vô cơ sử dụng hàng ngày trên đất lúa đã làm thay đổi rất nhiều về chất lượng đất, nước và quần thể sinh vật trong tự nhiên. Tất cả những vấn đề nêu trên vẫn chưa thể nào đánh giá hết được. Rất cần có những nghiên cứu trong tương lai.

Những cải thiện về mặt kỹ thuật

i) So với yêu cầu, số lượng giống tốt còn thiếu, số lượng giống tốt không đủ cung ứng cho sản xuất, việc sử dụng giống kém chất lượng còn khá phổ biến. Năng lực chọn tạo giống tuy được nâng cao nhưng chưa đáp ứng đòi hỏi của sản xuất đang cần nhiều loại giống có đặc tính tốt, phù hợp từng vùng canh tác. (Cục Trồng trọt, 2005)

ii) Việc canh tác các giống lúa kém chất lượng vẫn còn diễn ra phổ biến và chiếm tỉ lệ diện tích cao ở một số vùng. Nguyên nhân, những giống lúa này có thị trường tiêu thụ nhất định dùng để chế biến thành các sản phẩm từ gạo như mì, bánh tráng… Do vậy, một vài thời điểm trong năm không thể tiêu thụ hết lượng gạo này được.

iii) Giống lúa cao sản có thời gian sinh trưởng ngắn, canh tác nhiều vụ trong năm đòi hỏi kỹ thuật thâm canh cao vừa đạt năng suất, chất lượng nhưng cũng vừa giữ được tính chất và độ phì nhiêu của đất để tái canh tác có hiệu quả hơn.

iv) Các Công ty giống là những đơn vị có hệ thống sản xuất, chế biến và kiểm soát chất lượng hạt giống tốt nhất, do vậy số mẫu không đạt tiêu chuẩn của nhóm này cũng thấp nhất; tiếp theo là nhóm Viện – Trường và Trung tâm giống.

v) Giống nông hộ có chất lượng thấp ở cả hai cấp giống nguyên chủng và xác nhận. Để nâng cao chất lượng giống nông hộ thì các câu lạc bộ và hộ nông dân phải được cung cấp giống gốc đạt tiêu chuẩn chất lượng; công tác kiểm định ngoài đồng và kiểm nghiệm trong phòng cần được hỗ trợ và giám sát bởi cơ quan chức năng. Ngoài ra hệ thống nông hộ cần được đầu tư hỗ trợ về trang thiết bị chế biến hạt giống.

vi) Chất lượng hạt giống trong các hệ thống sản xuất lúa giống ở ĐBSCL còn nhiều hạn chế, cần phải khắc phục triệt để trong thời gian tới. Có nhiều nguyên nhân làm cho chất lượng hạt giống lúa ở ĐBSCL chưa đáp ứng được tiêu chuẩn, trong đó phần lớn các mẫu hạt giống không đạt chất lượng do tỷ lệ hạt khác giống quá cao. Điều này phản ánh chất lượng giống gốc (siêu nguyên chủng và nguyên chủng) chưa đáp ứng yêu cầu.

vii) Hệ thống sản xuất hạt giống siêu nguyên chủng (do các Viện, Trường thực hiện) chưa được quan tâm đúng mức. Do vậy trong nhiều năm vừa qua chất lượng giống siêu nguyên chủng không đáp ứng được tiêu chuẩn đã ban hành, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng của cấp nguyên chủng và xác nhận sau này.

viii) Hệ thống chế biến hạt giống còn nhiều yếu kém. Trang thiết bị cũ, lạc hậu, vừa thiếu, vừa không đồng bộ do vậy nhiều lô hạt giống không đạt tiêu chuẩn về độ sạch và độ ẩm.

ix) Hệ thống quản lý chất lượng hạt giống chưa được vận hành tốt ở các cơ sở sản xuất hạt giống. Công tác kiểm soát chất lượng hạt giống (ngoài đồng và trong phòng) chưa được quan tâm đúng mức.

Sử dụng giống lúa cao sản ngắn ngày trong điều kiện thâm canh tăng vụ ở đồng bằng sông Cửu Long đòi hỏi phải chuyển sang một hình thức canh tác và quản lý sản xuất mới.

Sản xuất lúa định hướng theo sự phát triển bền vững cần phải: (i) năng suất, sản lượng lúa phải ổn định trong từng vụ lúa, từng năm và trong nhiều năm tới; (ii) thu nhập, lợi nhuận và đời sống nông dân được nâng cao; (iii) giảm thiểu sự suy thoái về đất đai canh tác lúa, nguồn nước phục vụ sản xuất và tiêu dùng, sức khỏe người trồng lúa được bảo vệ; (iv) đời sống văn hóa – xã hội nông thôn được cải thiện.

Sự bền vững này đòi hỏi nhiều chương trình, giải pháp, nhiều chính sách hỗ trợ và sự đồng bộ trong sản xuất, thiêu thụ và bảo vệ sức khỏe người dân, bảo vệ môi trường. Liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và phải được thực hiện bằng các bước đi, giai đoạn thích ứng với trình độ và sự phát triển của người dân trong vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long trong nhiều năm qua vẫn tập trung chủ yếu vào hướng mở rộng diện tích và gia tăng năng suất. Thực tế, việc mở rộng diện tích lúa có giới hạn và gia tăng năng suất lúa các biện pháp kỹ thuật vẫn chưa đồng bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long chưa có một quy trình sản xuất lúa cơ bản cho toàn vùng và cụ thể cho các tiểu vùng sinh thái, do vậy sự gia tăng năng suất, sản lượng vẫn mang tính bấp bênh, tùy thuộc nhiều vào các yếu tố tự nhiên, thời tiết, khí tượng và sự phát sinh, phát triển của dịch hại. Sự áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vẫn còn mang tính riêng lẽ ở từng khu vực. Mặc dù các tiến bộ kỹ thuật ba giảm ba tăng, bón phân đạm theo bảng so màu lá, phòng trừ dịch hại tổng hợp, sử dụng giống lúa xác nhận, xuống giống tập trung né rầy … được Bộ Nông nghiệp và PTNT phát động, khuyến cáo áp dụng rộng rãi. Tuy nhiên, biện pháp xuống giống tập trung né rầy được thể hiện rõ nhất {hàng năm chiếm khoảng 65% (trong vụ hè thu) đến 80% (trong vụ đông xuân) diện tích xuống giống lúa} các biện pháp kỹ thuật khác chưa thấy sự thống kê áp dụng rõ ràng ở từng tỉnh, từng vùng. (Phạm Văn Dư, 2010)

Cần xây dựng quy trình thực hành nông nghiệp tốt (GAP) cho sản xuất lúa, trước mắt là VietGAP nhằm từng bước bảo đảm được chất lượng đã cam kết và đang được đòi hỏi trên thị trường thế giới.

Thực hiện chuyên canh trên quy mô tương đối lớn để bảo đảm chất lượng được nâng cao và duy trì ổn định, bảo đảm khả năng giao một lượng sản phẩm tương đối lớn trong thời hạn tương đối ngắn, theo kịp yêu cầu của thị trường. Sản xuất manh mún cho những sản phẩm chất lượng không đồng đều, đòi hỏi phải thu gom từ rất nhiều nhà sản xuất vừa tăng chi phí về thời gian và tiền bạc vừa không bảo đảm được độ ổn định của sản phẩm.

Để đạt được những tiến bộ rõ rệt trong thời gian ngắn, cần có những dự án được kết hợp thành những chương trình mục tiêu, thực hiện một cách kiên trì và nhất quán. Động lực thị trường có thể sẽ giúp người nông dân tiếp cận nhanh hơn với các phương pháp và tác phong canh tác mới, từ bỏ cách làm ăn cũ, tư duy và tác phong cũ không còn thích hợp. (Phạm Văn Dư, 2009)

Giải quyết thỏa đáng quan hệ giữa Nhà nước, nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong phân phối lợi nhuận theo hướng quan tâm nhiều hơn đối với người trồng lúa.

(i) về nguồn tài nguyên và các điều kiện tự nhiên cho phép chúng ta có thể trồng được 3 vụ lúa/năm trên diện rộng như vùng ĐBSCL, thích nghi với nhiều giống lúa cao sản, lúa đặc sản.

(ii) về chi phí sản xuất lúa có thể giảm khi tăng cường ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật 3 giảm 3 tăng, 1 phải năm giảm, tiết kiệm nước, bón phân đạm theo bảng so màu lá, cơ giới hóa trong nhiều khâu canh tác lúa

(iii) chất lượng lúa có thể gia tăng khi canh tác theo hướng GAP, đồng nhất về giống canh tác trong từng vùng, từng khu quy hoạch. Có sự chỉ đạo và liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp - cơ quan Nông nghiệp – Nông dân.


Tài liệu tham khảo chính

1. Cục Trồng trọt, 2007. Báo cáo hiện trạng ngành giống cây trồng Việt Nam, trang 8.
2. Cục Trồng trọt, 2005. Báo cáo hiện trạng ngành giống cây trồng Việt Nam, trang 20.
3. Hiroyuki Konuma, 2011. Global and Regional Food Security Situation and Outlook in Asia and The Pacific. Asia-Europe Meeting (ASEM), High-Level Conference on Food Security, Chang Mai, Thai Lan, 9-11 May 2011
4. Nguyễn Quốc Lý, 2007. Báo cáo Điều tra đánh giá cơ cấu, hệ thống sản xuất, chất lượng và công tác quản lý giống lúa ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long.
5. Pham Van Dư, 2007. Breeding Activities and Genetic Resources in VietNam on Revitalizing the Global exchange and Utilization of Rice Breeding Resources, INGER-IRRI, 8-11 May, 2007 Bangkok, Thai Lan
6. Pham Van Dư, 2010. Focus on Vietnam: Rice Supply and Demand Outlook. The 2nd Middle East-Africa-Asia Rice Summit 2010. 20-21 June 2010, JW Marriott Hotel, Dubai
7. Pham Van Dư, 2011. GAP for Rice in The Mekong Delta, Progress and Plans, Workshop on Good Agricultural Practices (GAP) for Rice in the Southeast Asia, 3-5 April 2011Bangkok, ThaiLan
8. Phạm Văn Dư, Đào Quang Hưng, Lê Thanh Tùng 2009. Tăng cường liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long. Tài liệu hội nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về “Tăng cường liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ lúa gạo ở đồng bằng sông Cửu Long” Long xuyên ngày 24 tháng 2 năm 2009,
9. Phạm Văn Dư, 2010. Báo cáo 10 năm thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 20/01/2003 và Chỉ thị số 12-CT/TW ngày 16/4/2002 của Bộ Chính trị( khoá IX) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc http://www.blogger.com/img/blank.gifphòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2001 – 2010.http://www.blogger.com/img/blank.gifhttp://www.blogger.com/img/blank.gif
10. Trần Văn Đạt, 2002. Tiến trình phát triển sản xuất lúa gạo tại Việt Nam - Từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, Sài Gòn.trang 115.http://www.blogger.com

(*) Vào năm 1966, USAID có sáng kiến du nhập số lượng lớn lúa giống IR8 từ IRRI ở Philippines vào Việt Nam để trồng, nhưng thỏa hiệp giữa IRRI và chính phủ Philippines không cho phép Viện Nghiên Cứu Lúa này xuất khẩu số lượng lớn dù là lúa giống. Cuộc thương thảo diễn ra khá lâu với sự can thiệp từ bên trong và bên ngoài, cuối cùng chính phủ Marcos phải nhượng bộ và cho phép xuất khẩu 6 tấn lúa giống IR 8 vào Việt Nam giữa năm 1967 để trồng sau nạn lụt xảy ra ở Vỏ Đắt, tỉnh Bình Tuy. Cuộc CMX ở Việt Nam là do từ sáng kiến và đóng góp quan trọng của USAID ở Miền Nam.

Ghi chú
:
(1) PGS-TS.Phạm Văn Dư, Phó Cục Trưởng Cục Trồng Trọt – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
(2) Thạc sĩ Lê Thanh Tùng, Chuyên viên chính Cục Trồng Trọt – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
(3) Vào năm 1966, USAID có sáng kiến du nhập số lượng lớn lúa giống IR8 từ IRRI ở Philippines vào Việt Nam để trồng, nhưng thỏa hiệp giữa IRRI và chính phủ Philippines không cho phép Viện Nghiên Cứu Lúa này xuất khẩu số lượng lớn dù là lúa giống. Cuộc thương thảo diễn ra khá lâu với sự can thiệp từ bên trong và bên ngoài, cuối cùng chính phủ Marcos phải nhượng bộ và cho phép xuất khẩu 6 tấn lúa giống IR 8 vào Việt Nam giữa năm 1967 để trồng sau nạn lụt xảy ra ở Vỏ Đắt, tỉnh Bình Tuy. Cuộc CMX ở Việt Nam là do từ sáng kiến và đóng góp quan trọng của USAID ở Miền Nam.
(4) Giống lúa IR 8 được đặt tên là Thần Nông bởi Giáo sư Tôn Thất Trình khi ông làm Tổng Trưởng Bộ Canh Nông Miền Nam vào đầu năm 1968 (theo thông tin từ quý Ông Đoàn Minh Quan và T. S . Trần Đăng Hồng). Thần Nông là người đầu tiên dạy người dân cách trồng trọt và chăn nuôi vào cuối thiên kỷ IV trước CN.

Nguồn: Phạm Văn Dư, Lê Thanh Tùng 2011. Thành tựu và giới hạn của việc áp dụng giống lúa cao sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Trong sách: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Sản xuất và cung ứng lúa giống các tỉnh phía Nam. Diễn đàn Khuyến Nông @ Nông nghiệp lần thứ 5-2011. PGS.TS. Mai Thành Phụng (chủ biên), Ths. Phạm Văn Tình, KS. Vũ Tiết Sơn. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, trang 19-29. Hoàng Kim, Hoàng Long biên tập mạng và post theo bản email trực tiếp từ PGS.TS. Mai Thành Phụng

NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC, FOOD CROPS

9/8/11

Cải tiến giống lúa phẩm chất gạo tốt tiếp cận chiến lược mới



CÂY LƯƠNG THỰC. GS.TS. Bùi Chí Bửu và GS.TS. Nguyễn Thị Lang 2011 với bài viết Cải tiến giống lúa phẩm chất gạo tốt tiếp cận chiến lược mới đã khái quát những thành tựu mới nhất trên thế giới và Việt Nam liên quan đến vấn đề này. Năng suất lúa là yếu tố cơ bản cho phép việc điều chỉnh mục đích sử dụng diện tích lúa. Khả năng năng suất lúa lai tăng so với lúa thuần 15-20%. Khả năng sử dụng công nghệ sinh học tạo giống lúa quang hợp theo chu trình C4 tăng năng suất hơn 40% (có nghĩa là năng suất tối đa sẽ đạt 12-16 tấn /ha). Bên cạnh đó, việc cải tiến kỹ thuật bón phân làm gia tăng hiệu quả sử dụng phân đạm từ 40% hiện nay lên 70% trong tương lai, tưới tiết kiệm nước, cộng thêm các giải pháp kỹ thuật đồng bộ khác sẽ góp phần quan trọng vào việc giảm giá thành. Cải tiến phẩm chất lúa gạo có ý nghĩa quyết định để tiếp cận mục tiêu phát triển sản xuất lúa theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.


Cải tiến giống lúa phẩm chất gạo tốt tiếp cận chiến lược mới


Bùi Chí Bửu 1 & Nguyễn Thị Lang 2
1 Viện KHKTNN miền Nam
2 Viện Lúa ĐBSCL




Năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị Quyết 09 định hướng các nội dung để tăng khả năng cạnh tranh của nông lâm sản, mở rộng thị trường. Năm 2001, Chính phủ ra Quyết định 80 về liên kết theo hợp đồng giữa người sản xuất và các doanh nghiệp, nhằm khắc phục tình trạng chia cắt giữa sản xuất, thu mua, chế biến và thị trường. Đại Hội Đảng IX (tháng 4/2001) đề ra nhiệm vụ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Cơ cấu nông nghiệp chuyển dịch rõ rệt: diện tích lúa giảm 180.00 ha, nhưng sản lượng từ 32,5 triệu tấn/năm 2000 tăng gần 36 triệu tấn /2005 và gần 40 triệu tấn năm 2010; xuất khẩu nông sản năm 2010 đạt kỷ lục 19 tỷ USD. Tính riêng giai đoạn 2000-2007, nông nghiệp Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 5,24%/năm về giá trị tổng sản lượng và 3,71%/ năm về giá trị gia tăng (Bộ NN và PTNT 2008). Nhưng nông dân trồng lúa có thu nhập khá thấp (360 USD / năm 2009; bằng 1/3 trung bình cả nước).

Cải tiến phẩm chất lúa gạo có ý nghĩa quyết định để tiếp cận mục tiêu phát triển sản xuất lúa theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững.

I. Trước hết, chúng ta vẫn phải giữ vững được năng suất lúa tăng đều với nhịp độ mà chúng ta có thể quản lý được. Bài học sản xuất lúa giai đoạn 1986-2008 cho thấy: diện tích gieo trồng lúa chỉ tăng 30% (nhờ thủy lợi), nhưng sản lượng thóc tăng 142%, trung bình tăng 1,03 triệu tấn thóc /năm, trong suốt 22 năm qua (Nguyễn Văn Bộ 2009). Như vậy năng suất đã tăng trung bình 0,11 tấn / năm và đạt cao nhất trong các nước ASEAN (5,2 tấn / ha vào năm 2009). Năng suất lúa là yếu tố cơ bản cho phép việc điều chỉnh mục đích sử dụng diện tích lúa. Các giải pháp tăng năng suất lúa xét về khía cạnh khoa học thuần túy đã được tổng kết tại hội nghị di truyền quốc tế về lúa tại Manila vào tháng 11-2009 như sau:
• Ảnh hưởng di truyền của năng suất và ưu thế lai được khảo sát trên cơ sở bản đồ di truyền chi tiết (khoảng cách giữa 2 chỉ thị phân tử: 0,35 cM) với kỹ thuật đọc trình tự mới nhất.
• Xây dựng các quần thể con lai đặc biệt để nghiên cứu 16 vị trí trên nhiễm sắc thể (16 loci) qui định năng suất và ảnh hưởng ưu thế lai.
• Xác định hệ thống điều hoà gen giữa nguồn và sức chứa vì mục tiêu năng suất.

Người ta kết luận rằng: khả năng năng suất lúa lai tăng so với lúa thuần 15-20%. Khả năng sử dụng công nghệ sinh học tạo giống lúa quang hợp theo chu trình C4 tăng năng suất hơn 40% (có nghĩa là năng suất tối đa sẽ đạt 12-16 tấn /ha). Bên cạnh đó, việc cải tiến kỹ thuật bón phân làm gia tăng hiệu quả sử dụng phân đạm từ 40% hiện nay lên 70% trong tương lai, tưới tiết kiệm nước, cộng thêm các giải pháp kỹ thuật đồng bộ khác sẽ góp phần quan trọng vào việc giảm giá thành.

II. Gia tăng phẩm chất lúa gạo được hiểu theo hai nội dung lớn: phẩm chất thương mại và phẩm chất dinh dưỡng. Việc gia tăng phẩm chất lúa gạo cần được xây dựng trên chiến lược kinh doanhchiến lược an ninh lương thực quốc gia.

Trước 1990, 80% giống lúa Việt Nam có hàm lượng amylose cao (>25%). Sau đó tỷ lệ này giảm dần, với những giống lúa chủ lực hạt dài, hàm lượng amylose thấp đến trung bình, cạnh tranh được với gạo trắng Thái Lan (chúng ta chỉ thua so với gạo thơm Thái, vì họ sử dụng giống truyền thống). Đó cả một giai đoạn cải tiến vô cùng khó khăn tính trạng hàm lượng amylose (AC) do gen waxy điều khiển trên nhiễm sắc thể số 6. Gạo hạt dài >7mm đạt được chuẩn thị trường quốc tế kể từ 1995. Gạo chất lượng cao nhờ áp dụng giống lúa xác nhận, mà trước 1996, cả vùng chỉ đạt <2%; nay con số đó đã tăng lên 30%. Hạt gạo Việt Nam đã có thể cạnh tranh với gạo trắng hạt dài của Thái Lan. Thách thức trước mắt là cải tiến giống lúa cao sản, gạo thơm, độ bền thể gel >60mm.

Chất lượng hạt gạo bao gồm: chất lượng xay chà, chất lượng cơm và chất lượng dinh dưỡng. Thị hiếu của người tiêu dùng thường chú ý đến chất lượng cơm sau khi nấu. Chất lượng cơm bao gồm hàm lượng amylose, độ trở hồ, độ bền thể gel; hàm lượng dinh dưỡng bao gồm lượng protein, vitamin, khóang vi lượng.

2.1 Phẩm chất dinh dưỡng

Kết quả điều tra của WHO cho thấy 40% trẻ em dưới 5 tuổi + 30% trẻ em đang cắp sách đến trường + 50% phụ nữ mang thai, đều có triệu chứng thiếu Vit A. Dr Ingo Potrykus và Dr Peter Beyer (2000) cùng với ctv đã tạo ra giống vàng (Golden Rice) bằng con đường biến đổi gen rất thành công (TS Trần thị Cúc Hòa là một trong những thành viên của nhóm nghiên cứu). Giống Golden Rice bao gồm vitamin A, sắt, kẽm. Người ta đã phân lập gen psy của cây daffodil và gen crt1 của vi khuẩn Erwinia (kết quả thể hiện trong cây lúa chuyển gen là 35 microgram Betacarotene / gr). Dự kiến năm 2013 nó sẽ được trồng ở Philippines (giải quyết được 250-500 nghìn trẻ em bị khô võng mạc/năm). Ngày 29-7-2010, trên tạp chí Nature, Dr Ingo Potrychus đã viết như sau “Lúa vàng cung cấp 35 mg tiền chất vitamin A / gr cơm; làm giảm 6.000 người nghèo phải chết do thiếu vit A / mỗi ngày. Lúa vàng mất 10 năm nghiên cứu và phát triển / điều kiện qui định khắc nghiệt của các nước tham gia. Nhóm nghiên cứu loại bỏ được marker genes: mất hơn 2 năm. Việc khảo nghiệm đồng ruộng mất 2 năm. Thu thập dữ liệu về an toàn sinh học mất 4 năm. Nhưng chính sự bất công của những văn kiện pháp lý hiện nay đối với cây trồng biến đổi gen biểu hiện sự thiếu thực tiễn và đang ngăn chận khả năng của chúng để cứu được hàng triệu người thoát khỏi nạn đói và suy dinh dưỡng”.

Hàm lượng axit phytic có trong hạt gạo làm ức chế ruột non hấp thu sắt. Do ăn nhiều cơm, nên người Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em bị hội chứng anemia (thiếu sắt) khá trầm trọng. Giống lúa có gen LPA do một đột biến được ghi nhận, làm giảm phytic acid trong gạo đáng kể. Nó đã và đang được khai thác trong chương trình cải tiến giống lúa. Đột biến axit phytic thấp được tạo ra do các tác nhân đột biến trên bắp, lúa gạo, lúa mạch và đậu nành (Ras-mussen và Hatzack 1998; Larson và ctv, 2000; Raboy và ctv. 2000; Wilcox và ctv. 2000), được ứng dụng trong di truyền, chọn giống (Raboy và ctv. 2001). Đột biến lpa1 làm giảm lượng axit phytic nhưng không tích lũy inositol polyphosphate. Đột biến lpa2 làm giảm lượng axit phytic nhưng đột biến này làm tích lũy InsP3, InsP4 và InsP5 (Raboy và ctv. 2000). Giống lúa Xie Qing Zao của Trung Quốc được đột biến bằng tia gamma tạo ra gen lặn lpa-1 được khai thác thành công. Viện Lúa ĐBSCL đã sử dụng OM1490 và OMCS2000 xử lý phóng xạ bằng hóa chất và tia gamma tạo ra được một gen lặn lpa mới định vị trên nhiễm sắc thể số 3. Nhưng gen này thể hiện kiểu hình kém ổn định. Phát hiện của Viện Lúa ĐBSCL về quần thể lúa hoang ở Đồng Tháp Mười Oryza rufupogon có hàm lượng axit phytic thấp đã gây ngạc nhiên cho các chuyên gia của IAEA, khi tổng kết chương trình vào năm 2008 tại Vienne.

Giáo sư Gyn An (2009) thuộc ĐH Pohang, Hàn Quốc, nghiên cứu về thiếu sắt với hội chứng anemia (IDA) tại các nước đang phát triển. Có khoảng 1 triệu người chết mỗi năm trên thế giới do hội chứng anemia. Nhu cầu sắt mỗi ngày là 1mg; nhưng chỉ có 10-15% sắt được hấp thu vào cơ thể. Do đó, người ta khuyến cáo sử dụng 10-15 mg/ngày cho người trưởng thành, 8-10 mg / ngày cho trẻ em. Gạo thông thường chỉ cho 2mg Fe trong 200 gr; nhưng Fe trong gạo bị phytate giữ chặt như chelate. GS An và ctv. nghiên cứu chuyển gen “ferritin” của đậu tương vào lúa làm gia tăng hàm lượng sắt trong cơm. Họ chú ý đến nicotianamine (NA) như một chelator đối với ion kim loại. Đây là thành phần chủ chốt trong trạng thái tối ưu hoá sắt trong cây lúa (iron homeostasis). Có 3 gen NAS được phân lập trong đó 2 gen quan trọng là OsNAS3 trên nhiễm sắc thể số 7 và OsNAS2 trên nhiễm sắc thể số 3.

Naoko K. Nishizawa và ctv. (2009) thuộc ĐH Tokyo, Nhật Bản, nghiên cứu về sự hấp thu sắt và cách thức sắt chuyển vị vào trong hạt gạo. Cho dù sắt có nhiều trong đất, nhưng hầu hết Fe hiện diện ở dạng Fe3+ không hoà tan. Lúa tiết ra mugineic acid phytosiderophores để bắt giữ Fe3+ trong đất và tạo ra phức Fe3+ phytosiderophore. Nicotianamine, tiền chất trực tiếp của phytosiderophore, là một chelator của nhiều kim loại di động, đặc biệt là Fe2+, nó đóng vai trò quan trọng trong chuyển vị sắt vào các cơ quan sinh dưỡng và sinh thực của cây lúa. Gia tăng hấp thu sắt từ đất là tiền đề làm gia tăng hàm lượng sắt trong hạt gạo. Như vậy, nó cần sự giúp đỡ của những chất đóng vai trò vận chuyển (transporters). Các nhà khoa học Nhật Bản đã phân lập thành công nhiều gen điều khiển sự hấp thu và vận chuyển Fe trong cây lúa. Gen mã hoá enzymee trong sinh tổng hợp phytosiderophore là một ví dụ. Gen mã hoá các transporters vận chuyển Fe3+ phytosiderophore hoặc Fe2+ nicotianamine. Họ còn phân lập được 3 yếu tố phiên mã trong cây lúa: IDEF1, IDEF2 và IRO2, tham gia trong cơ chế phân tử điều hoà gen dưới điều kiện thiếu sắt. Họ sử dụng các gen này là gia tăng sự tích tụ hàm lượng sắt trong hạt gạo.

Hàm lượng protein trong cây lúa (GPC) biến động từ 6 % đến 12 %. Tỉ lệ này cao hay thấp thường do yếu tố giống quyết định 40% và còn 60% do ảnh hưởng của môi trường và thời gian bảo quản hạt (Nguyễn thị Lang và ctv. 2001). Thời gian tồn trữ lúa trong kho càng lâu, hàm lượng protein càng giảm. Hàm lượng protein bị ảnh hưởng khá nhiều của giống và môi trường nhưng thành phần axit amin của lúa rất cân đối, ví dụ lysin luôn chiếm trung bình 3,5-4,0 % (cao hơn rất nhiều so với bắp). Di truyền của tính trạng hàm lượng protein trong hạt rất phức tạp và bị ảnh hưởng mạnh mẽ của môi trường, giống có hàm lượng protein cao thường liên kết với đặc tính thời gian sinh trưởng ngắn và khối lượng hạt nhẹ. Chỉ thị RM234 định vị trên nhiễm sắc thể số 7, cho đa hình với 3 alen với kích thước lần lượt là 163bp, 156bp,145bp đã được Viện Lúa ĐBSCL khai thác trong cải tiến giống lúa có hàm lượng protein cao (>8%).

Arthur Z. Wang và ctv. (2009) thuộc ĐH National Chung-Hsing, Đài Loan nghiên cứu proteomics cám gạo với 12-20% proteins và là nguồn để phát triển thực phẩm chức năng mới. Kết quả điện di 2 chiều cho thấy sự khác biệt cám trong gạo với thành phần bên trong nội nhũ. Có 238 protein spots được phân lập bằng sắc khí khối phổ (linear ion trap mass spectrometer) và 87 proteins được tìm thấy. UP01_PINHA, UP03_PINHA, REF_HEVBR, REHYA_ORYSI and REHYB_ORYSI biều hiện trong hầu hết các mẫu protein spots. Protein cám gạo đóng góp 14 “terms” của hợp phần tế bào, 6 “terms” của tiến trình sinh học và 7 terms của chức năng phân tử theo dữ liệu GOA (gene ontology annotation) của EMBL-EBI. Trong trường hợp không biết về dữ liệu “annotation” (để giải thích trình tự), hầu hết những “protein spots” như vậy đều định vị trong tế bào chất, tham gia tiến trình biến dưỡng, hoạt động xúc tác “oxidoreductase”. Tất cả những “protein spots” này có chức năng của enzymee, kết hợp với tính kháng stress. Khám phá cho thấy các protein cám gạo có chức năng đồng nhất và biểu thị nhiều chức năng mới.

Công nghệ sinh học có thể tạo ra những giống lúa làm thực phẩm chức năng như sau:
• Lúa biotech ngăn ngừa cao huyết áp: gen mã hóa GABA và NA
• Lúa biotech tích tụ “Type II collagen telogeneric” trong mô sụn, chữa bệnh viêm khớp
• Lúa biotech thể hiện protein ACE chống bệnh cao huyết áp (ĐH Tokyo)
• Lúa biotech tạo ra vaccine chống lại giun sán: biểu hiện protein As16 (ĐH Tokyo).

2.2 Phẩm chất thương mại

Chiều dài hạt gạo là tính trạng ổn định nhất, ít bị ảnh hưởng bởi môi trường, được điều khiển bởi đa gen. Thứ tự mức độ tính trội được ghi nhận như sau: Hạt dài> hạt trung bình> hạt ngắn> hạt rất ngắn. Thị hiếu người tiêu dùng về dạng hạt rất thay đổi, có nơi thích dạng hạt tròn, có nơi thích dạng hạt gạo dài trung bình, nhưng dạng hạt gạo thon dài là được tiêu thụ nhiều nhất trên thị trường quốc tế.

Tỉ lệ vỏ trấu trung bình từ 20-22%, có thể thay đổi từ 18-26%. Cám và phôi hạt chiếm 8-10%, do đó tỉ lệ gạo trắng thường ở vào khoảng 70%.

Tỉ lệ gạo trắng và tỉ lệ gạo lứt ít biến động và nó cũng phụ thuộc vào môi trường.
Tỉ lệ gạo nguyên biến động rất lớn và chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ của môi trường, đặc biệt là nhiệt độ và ẩm độ trong suốt thời gian chín, kéo dài đến lúc sau thu hoạch, đặc biệt là điều kiện phơi sấy, bảo quản.

Kích thước hạt do gen đa gen tương tác cộng tính điều khiển. Chiều dài và hình dạng hạt di truyền theo số lượng.

Độ trong suốt của hạt gạo phụ thuộc vào tính chất của phôi nhũ, vết đục xuất hiện ở lưng, bụng hoặc trung tâm hạt gạo. Hạt tinh bột ở vùng bạc bụng sắp xếp rời rạc, có cấu trúc kém chặt chẽ hơn vùng trong suốt, tạo khe hở chứa không khí giữa các hạt tinh bột hình thành vết đục. Tính trạng này di truyền đôc lập với các đặc tính nông học khác. Sự thay đổi khí hậu (nhiệt độ cao khi lúa trổ bông) có ảnh hưởng đáng kể đến việc tăng độ bạc bụng. Các thí nghiệm thực hiện tại vùng lúa của IRRI cho thấy, ở thời kỳ lúa từ trổ đến chắc, nếu điều kiện nhiệt độ đêm/ngày vào khoảng 20/30oC, lúa sẽ đạt 80% số hạt chắc, tuy nhiên độ bạc bụng lại khá cao (80%). Trong khi đó, trong điều kiện nhiệt độ đêm/ngày từ 15/25oC, tỷ lệ hạt chắc đạt rất thấp hơn nhưng tỷ lệ bạc bụng của hạt gạo lại rất thấp (thấp hơn 20%). Độ bạc trắng ở trung tâm hạt do gen wc điều khiển, còn độ bạc trắng ở bụng hạt do gen wb.

Amylose được xem là tính trạng có ý nghĩa quyết định đến sự mềm cơm. Hàm lượng amylose cao có tính trội không hoàn toàn so với hàm lượng amylose thấp, nó do một gen điều khiển kèm theo một số modifiers (gen phụ có tính chất cải tiến). Gen điều khiển sự co dãn hàm lượng amylose ae (amylose extender) được xác định trên nhiễm thể số 2 (Kaushik và Khush 1991).Thành tựu có ý nghĩa trong nghiên cứu di truyền phân tử về phẩm chất cơm có thể được ghi nhận qua công trình: bản đồ liên kết gen hệ enzyme III của tinh bột trong hạt gạo trên nhiễm thể số 2, với hai chỉ thị kế cận CDO 718 và RG 157. Amylose được đo lường bằng phương pháp hấp thu phổ sóng “amylose-iodine complex”. Thế giới đang thành lập mạng lưới phẩm chất lúa gạo (INQR: viết tắt từ chữ International Network for Quality Rice). INQR đã điều tra số liệu biến thiên giữa các phòng thí nghiệm khi phân tích amylose và xác định tại sao có sự sai lệch này. Phương pháp phân tích amylose không hề đơn giản và đòi hỏi độ chính xác với điều kiện chuẩn mực hơn. Phân tích QTL kiểm soát hàm lượng amylose cho thấy vùng giả định nằm trên nhiễm sắc thể số 5 và 6 với gen wx và các alen khác, giải thích biến thiên kiểu hình 91,1% trong quãng giữa hai marker RG573-C624. Yanagisawa và ctv. (2003) đã dùng kỹ thuật SNP (single nucleotide polymorphism) và dCAPS (derived cleaved amplified polymorphic sequence) tìm kiếm gen Wx-D1 trong lúa và lúa mì mã hóa protein wx-D1 thông qua phân tích immunoblot. Hàm lượng amylose còn chịu ảnh hưởng của tương tác: tính cộng x tính cộng, và tương tác trội x trội, trong phân tích epistasis. Nguyễn thị Lang và ctv. (2004) đã tìm thấy AC được kiểm soát bởi gen chính định vị trên nhiễm sắc thể số 5 và 6 liên kết với chỉ thị RM42 (nhiễm sắc thể số 5) và wx (nhiễm sắc thể số 6).

Nhiệt độ hóa hồ (GT) do gen alkqASS-6 điều khiển. Một vài nghiên cứu cho thấy nhiệt độ hóa hồ có liên quan đến hàm lượng amylose. Gen alk và qASS-6 có sự liên kết với gen wx (McKenzie và Rutger 1983). Nhiệt độ hóa hồ quyết định rất lớn đến hàm lượng amylose (Jennings và ctv. 1979). Gen chính và gen phụ liên quan đến nhiệt độ hóa hồ đều nằm trên nhiễm sắc thể số 6, quãng giữa hai chỉ thị CT201- RZ450 (Lu và ctv. 1996; He và ctv. 1998).

Mùi thơm 2-acetyl-1-pyrroline được tìm thấy trong giống Basmati 370 và Jasmine quyết định sự thể hiện mùi thơm. Ngoài ra còn có pentanol, hexanol, benzaldehyde tham gia vào mùi thơm của gạo. Ahn và ctv. (1992) xác định gen fgr định vị trên nhiễm sắc thể số 8 thông qua kỹ thuật RFLP, điều khiển mùi thơm. Gen lặn fgr liên kết chặt chẽ với chỉ thị RG 28 với khoảng cách di truyền 4,5cM. Nguyễn thị Lang và ctv. (2002) đã sử dụng chỉ thị RM223 liên kết với fgr trên nhiễm sắc thể số 8 với khoảng cách di truyền 1,6 cM trong chọn tạo giống lúa cao sản có mùi thơm, và phát triển thành công giống OM4900, OM6161, OM6162.

Mariafe Calingacion và ctv. (2009) thuộc IRRI và ĐH Cornell nghiên cứu nguồn gốc của lúa thơm trên cơ sở di truyền thông qua xác định gen “betaine aldehyde dehydrogenase” (BADH2) điều khiển mùi thơm. Người ta phân lập 8 alen không có chức năng theo giả định của BADH2. Chúng cho thấy sự khác biệt về địa lý và nguồn gốc di truyền. Cho dù nguồn gốc khác biệt nhiều, nhưng có một alen badh2.1, được xem như alen ưu thế trội trong tất cả giống lúa thơm đã biểu hiện kể cả ở giống Basmati và các loại hình Jasmine khác. Phân tích haplotype cho thấy được nguồn gốc của alen badh2.1 trong loại hình japonica và nó chứng minh rằng có sự du nhập alen này từ japonica vào indica. Các mẫu giống “Basmati-like” rất gần với tổ tiên japonica (haplotype) của chúng trên vùng có độ lớn 5,3 Mb chứa BADH2. Điều này cho thấy có sự tiến hoá giữa các giống Basmati và nguồn gen japonica.

Vito M. Butardo Jr., và ctv. (2009) thuộc CSIRO, ĐH Queensland, Úc kết hợp với Melissa A. Fitzgerald, IRRI thực hiện nghiên cứu di truyền chỉ số glycemic và “resistant starch” trong cây lúa bằng kỹ thuật làm im lặng gen (RNAi). Chỉ số glycemic thấp và mức độ “resistant starch” cao rất có ích cho nghiên cứu di truyền phẩm chất gạo ở mức độ phân tử. Các dạng đồng phân của enzymee có tính chọn lọc đối với tinh bột có thể biểu hiện hoặc không biểu hiện làm cho lộ trình hình thành tinh bột khá đa dạng trong quá trình làm ra amylose và amylopectin. Hiện tượng “downregulation” của một vài enzymees ảnh hưởng mạnh đến tính trạng này. Người ta thảo luận kỹ thuật “làm im lặng bởi RNA” trong sự kiện “downregulate” của SBEIIb (starch branching enzymee Iib) nhằm tạo ra các dòng lúa thể hiện kiểu hình ae (amylose extender), làm gia tăng giá trị “resistant starch” và điều tiết phản ứng glycemic. Nghiên cứu này chứng minh rằng downregulation sự thể hiện enzymee sinh tổng hợp tinh bột có thể thành công. Kết quả này mở ra khả năng sử dụng kỹ thuật “RNA silencing” nhằm cải tiến cấu trúc tinh bột và phẩm chất dinh dưỡng của gạo cũng như lúa mì.

Tiến sĩ Y.C. Cho và ctv. (2009) thuộc Viện Nghiên cứu Quốc gia về Khoa học Cây trồng (NICS), Hàn Quốc nghiên cứu QTL các tính trạng số lượng liên quan đến phẩm chất cơm của giống lúa ôn đới. Đó là tính trạng độ bóng hạt (glossiness), độ dính của cơm (stickiness), độ cứng (hardness), v.v… Hai quần thể RIL từ tổ hợp lai Suweon365 x Chucheongbyeo (S/C) và Ilpumbyeo x Moroberekan (I/M) được sử dụng. Ba vùng chứa những QTL điều khiển tính trạng nhiệt độ hoá hồ, hàm lượng amylose content, và hàm lượng protein trong quần quần thể S/C RIL được xác định trên nhiễm sắc thể số 6, đó là quãng RM589-RM253, trên nhiễm sắc thể số 7 với RM8261-RM3555, và trên NST số 8 với RM5556-RM547. Trên NST số 8 còn có 2 QTLs điều khiển tính trạng vị ngon và tất cả giá trị của cơm. Mỗi QTL giải thích 8,6% đến 26,1% biến thiên kiểu hình của các alen giống Chucheongbyeo. Ba vùng chứa những QTL quy định độ sáng bóng, độ dính dẽo, độ cứng trên quần thể I/M RIL được xác định tại RM60-RM523 trên NST số 3, RM5558-RM5642 trên NST số 5, và RM540-RM253 trên NST số 6. QTL quy định hàm lượng amylose trên NST số 3 giải thích được 10,9 % đến 15,7% biến thiên kiểu hình các alen của giống Ilpumbyeo. Mỗi QTL trên NST số 6 giải thích được 8,4% đến 37,4% biến thiên kiểu hình của alen thuộc giống Ilpumbyeo.

Kết luận

Thách thức đặt ra cho nhân loại là diện tích nông nghiệp giảm, nước tưới cho nông nghiệp giảm, dân số tăng, với sản lượng lương thực phải tăng gấp đôi vào 2050 so với 2000. Phẩm chất dinh dưỡng là chiến lược cần phải tiếp cận. Với khẩu phần ít, nhưng năng lượng cao, dinh dưỡng tốt sẽ là lời giải của tương lai.

Hãy dành cơ hội cho công nghệ sinh học phát triển một cách thuận lợi. Chúng tôi xin mượn ý tứ của nhà khoa học lớn Ingo Potrykus để kết thúc bài này : “Doanh nghiệp tư nhân chỉ tập trung vào những cơ hội có lợi nhuận cao nhất và chính đáng đối với những cây công nghiệp như ngô, bông vải, đậu tương. Trong khi, một giống cây trồng mới bằng con đường truyền thống, cải tiến genome, không cần chỉ tiêu an toàn nào cả, chỉ cần minh chứng rằng nó tốt hơn giống cũ. Đây là tiến trình vừa nhanh, vừa rẻ tiền. Điều này không công bằng đối với công nghệ di truyền, vì cơ quan đại chúng không thể đánh giá giống biến đổi gen mà thiếu cơ sở khoa học”.

Nguồn: Bùi Chí Bửu, Nguyễn Thị Lang 2011. Phát triển giống lúa phẩm chất gạo tốt tiếp cận chiến lược mới. Trong sách: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia. Nguồn: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia 2011. Sản xuất và cung ứng lúa giống các tỉnh phía Nam. Diễn đàn Khuyến Nông @ Nông nghiệp lần thứ 5. PGS.TS. Mai Thành Phụng (chủ biên), Ths. Phạm Văn Tình, KS. Vũ Tiết Sơn. Nhà Xuất bản Nông nghiệp, trang 13-18. Hoàng Long biên tập mạng và post tại các trang NGỌC PHƯƠNG NAM, DẠY VÀ HỌC, CÂY LƯƠNG THỰC, FOOD CROPS theo bản email trực tiếp từ PGS.TS. Mai Thành Phụng

Người theo dõi