Tiến sĩ lúa mùa
SGTT.VN - Trên chuyến xe đò từ Cần Thơ về huyện Hồng
Dân (Bạc Liêu) hồi cuối tháng 2 năm nay, dọc đường, điện thoại của một
người rặt vóc dáng nông dân không ngừng reo. Người gọi là những hộ dân
đang trồng thí điểm một số giống lúa mùa, họ lo lắng khi độ mặn hiện giờ
đã vượt 10%0. Dưới cái nắng giữa cuối mùa khô và độ mặn cứ tăng dần mỗi
ngày, tôm cũng dễ chết nên lúa giống đang ủ liệu có nảy mầm, lúa đang
trổ đòng liệu có ngậm sữa… Người nghe là phó giáo sư – tiến sĩ Võ Công
Thành.
Lúa chịu mặn
Buổi làm việc với tiến sĩ Thành ở Hồng Dân hôm ấy, có
mặt cả bí thư lẫn chủ tịch huyện. Số là, mấy năm trước, khi biết ông
đang lai tạo một số giống lúa mùa chịu được mặn, huyện tìm đến ông và ký
hợp đồng để phá hoang vùng ngập mặn hơn 24.000ha. Suốt mấy năm đeo
đuổi, cải tạo, nhân giống, cách mà ông thường gọi là “phục tráng”, các
giống lúa Một Bụi Đỏ, Một Bụi Hồng… đã bám rễ ở những vùng độ mặn 6 –
8%0 và trở thành gạo thương phẩm, vừa sạch vừa ngon, được đăng ký bảo
hộ. Một bước dài, năm nay khoảng 16.000ha vùng mặn xen ngọt đã được giải
quyết, nông dân làm được một vụ lúa, một vụ tôm – cá hoặc xen canh tôm –
lúa.
Cái cũ chưa xong, đầu năm ngoái, hai bên lại ký tiếp
hợp đồng mới, yêu cầu của bên trả tiền: giải quyết nốt 5.000ha vùng quá
mặn (trên dưới 10%0). Bên nhận tiền trưng ra một loại lúa mùa khác, tên
“Sỏi”. Buổi làm việc căng như dây đàn dù toàn người thân quen. Hợp đồng
cũ coi như xong, nhưng huyện đề nghị ông giảm bớt tỷ lệ bạc bụng trong
gạo, hỗ trợ một phần đầu ra. Hợp đồng mới còn ngổn ngang, sau một năm,
từ 4kg lúa Sỏi giống siêu nguyên chủng của phòng thí nghiệm, Hồng Dân
thu được 20 tấn lúa giống. Lúa Sỏi xuống ruộng không phải dùng thuốc trừ
sâu bệnh, chịu mặn, chịu nóng, năng suất 4 – 5 tấn/ha, cơm mềm, khoáng
chất cao, chỉ cần rút ngắn thời gian sinh trưởng xuống 100 ngày là ổn.
Mùa này, cả huyện xuống giống hơn 300ha, tới vụ thu hoạch ước chừng từ
1.200 – 1.500 tấn. Thôi thì trăm thứ để bàn, trồng theo phương án nào,
20 tấn giống xử lý ra sao, có bán ra ngoài tỉnh không. Đầu ra, huyện có
dám bao tiêu hết…. Thế mới biết, lấy được một đồng chân chính từ ngân
sách thật không dễ!
Trong chuyến về Hồng Dân hôm ấy, nhìn ông lúc làm việc
với lãnh đạo huyện Hồng Dân, hay khi bì bõm lội ruộng thăm lúa, mái tóc
bạc cháy nắng, da đen sạm, nụ cười chất phác trên khoé môi khô, đôi bàn
tay chai sạn, người lạ sẽ nghĩ ngay ông là một nông dân chính hiệu chứ
không phải một phó giáo sư – tiến sĩ, giảng viên của đại học Cần Thơ.
Tiến sĩ “biến đổi khí hậu”
Người ta gọi ông bằng nhiều cái tên: “tiến sĩ thơm
phức” (ông lai tạo một giống lúa mùa có tên Thơm Phức) hay “tiến sĩ thần
nông mặn” (tên khác của lúa Sỏi), nhưng tôi vẫn thích gọi ông bằng cái
tên “tiến sĩ biến đổi khí hậu”. Có lẽ chính vì cái sự biến đổi khí hậu
của thiên nhiên, nên những vốn quý của đồng bằng – các giống lúa mùa
truyền thống – được ông sưu tập, bảo tồn từ nhiều năm trước nay phát huy
tác dụng. Mặc dù, “vốn quý” này đã bị bộ Nông nghiệp và phát triển nông
thôn khai tử hơn chục năm trước vì năng suất kém, thời gian sinh trưởng
dài và đặc biệt là tác nhân phát tán rầy. Ông thổ lộ: “Nếu không có
biến đổi khí hậu, mấy giống lúa mùa chịu mặn, chịu hạn của tôi bị bỏ
quên tới mục”.
Các giống lúa Một Bụi Đỏ, Một Bụi Hồng… đã
bám rễ ở những vùng độ mặn 6 – 8 %0 và trở thành gạo thương phẩm, vừa
sạch vừa ngon, được đăng ký bảo hộ. Một bước dài, năm nay khoảng
16.000ha vùng mặn xen ngọt đã làm được một vụ lúa, một vụ tôm – cá hoặc
xen canh tôm – lúa.
|
Cái mốc đáng nhớ của ông là vào mùa khô năm 2007 –
2008, khi các tỉnh ven biển đồng bằng sông Cửu Long bị hạn, nước mặn xâm
nhập sâu vào nội đồng. Tất cả đổ xô đi tìm giống lúa chịu mặn. Họ tìm
ông và ngay sau đó “Thơm Phức” (ông gọi tắt là TP) được đưa xuống Trà
Vinh thử nghiệm. Vào vụ gặt, TP vẫn trĩu hạt dù nước ruộng đã mặn từ
lâu, trong khi các giống quen bông trổ thẳng đứng, lép kẹp. Cơm mềm, bay
mùi thơm phức. Vụ đầu mỗi hecta được 4 – 5 tấn, mấy vụ sau lên 6 – 7
tấn. Công ty lương thực Trà Vinh làm thêm một bước: bao tiêu đầu ra. TP
được cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận nhãn hiệu.
“Tiếng lành đồn xa”, nhiều địa phương, cả doanh nghiệp
lẫn nhà quản lý tìm đến ông đặt hàng các giống lúa mùa thích ứng với
biến đổi khí hậu ở vùng của mình. Họ đến từ vùng mặn ở Cà Mau, Kiên
Giang… và cả từ vùng hạn ở Tri Tôn, Thoại Sơn (An Giang). Ông bận túi
bụi khi phải phục tráng hàng loạt giống lúa mùa: Thần Nông, Tài Nguyên,
Nàng Níu, Nàng Thơm… Đến nay, hơn chục giống lúa mùa, qua bàn tay ông và
cộng sự, đã chịu được hạn, mặn, ngắn ngày, năng suất khá, thơm mềm.
Giấc mơ xanh trên 700.000ha ngập mặn
Cơ duyên đưa ông đến với những giống lúa mùa chịu hạn,
chịu mặn bắt đầu từ cuối thập niên 90 của thế kỷ trước, khi Nhật Bản
chuyển giao cho trường đại học Cần Thơ một công nghệ có tên “Điện di
protein SDS-PAGE”. Công nghệ này được phía Nhật ứng dụng trên cây đậu
nành. Thấy có vẻ không hợp ở xứ mình, nên ông mạnh dạn đề nghị chuyển
sang cây lúa. Nôm na, kỹ thuật điện di protein SDS-PAGE có thể phát hiện
gạo mềm, hoặc cứng cơm, tăng được nhiều hàm lượng quý như sắt, protein…
trong gạo, nên có thể tuyển lấy nguồn giống tốt nhất. Đây là đề tài
luận án tiến sĩ của ông vào năm 2003, tại đại học Công nông Tokyo.
Cũng lúc này, tiến sĩ Võ Công Thành bắt đầu hành trình
đi tìm, thu thập những giống lúa mùa của dân gian vùng đồng bằng từ xa
xưa. Nhiều năm rong ruổi trên chiếc xe máy, từ Long An, Bến Tre đến Cà
Mau, Kiên Giang… không vùng ngập mặn nào ông không đặt chân, ăn nằm với
nông dân để tìm hiểu đặc điểm sinh trưởng của từng giống. Lúc này, lúa
mùa đã gần như bị loại khỏi cuộc chơi vì dài ngày, năng suất chỉ cỡ 1
tấn/ha. Đến 2004, ông kiếm được khoảng 150 giống lúa mùa. Trong số này,
không ít giống có khả năng kháng mặn, kháng bệnh, ông chọn ra và nhân
giống ở phòng thí nghiệm của trường. Đầu tiên là Một Bụi Đỏ và lúa Sỏi.
Bước nữa, ông dùng kỹ thuật điện di protein lấy cái phần thơm ngon của
lúa thơm lai tạo với giống chịu mặn.
Và TP ra đời với sức chịu mặn hơn 3%0.
“Nếu không có cái vụ biến đổi khí hậu thì mấy cái giống lúa mùa chịu mặn, chịu hạn của tôi bị xếp xó tới mục”
TS Võ Công Thành
|
Lúc này, ông công bố một đề tài nghiên cứu “Đánh giá
khả năng chịu mặn và đa dạng di truyền protein dự trữ của các giống lúa
trồng ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long”. Mục đích nhằm khai thác
vốn gen quý, phục vụ chọn tạo giống, đặc biệt trong tình hình biến đổi
khí hậu hiện nay. Tiếc rằng, đề tài của ông lúc đó chưa được quan tâm,
nó ngủ quên giống như bộ sưu tập lúa mùa (khoảng 100 loại giống bị hư
hỏng vì không có điều kiện bảo quản) và chỉ thức giấc khi nước mặn xâm
lấn sâu vào đồng bằng trong mùa khô 2007 – 2008.
***
Bước vào phòng thí nghiệm di truyền – chọn giống và ứng
dụng công nghệ sinh học của đại học Cần Thơ, nơi đang ươm gần chục
giống lúa để sẵn sàng cấp ngay giống nguyên chủng cho khách hàng, cũng
nhỏ bé như cái chỗ ngồi của ông trưởng phòng – phó giáo sư, tiến sĩ Võ
Công Thành. Chưa đầy chục con người, tất cả đều là học trò của ông vẫn
miệt mài với từng hạt lúa. Từ lâu, cái phòng thí nghiệm nhỏ bé này phải
xoay xở để tự trang trải chi phí, trả lương cho tám con người, mà đầu
tàu là thầy Thành. Nhưng dường như, những cái khốn khó thường nhật đã
tạm quên trong ánh mắt của vị tiến sĩ khi ông nói tới cái ngày 700.000ha
đất ngập mặn của vùng đồng bằng đều trồng lúa.
Bài cùng chủ đề:
Bài cùng chủ đề:
Giống lúa chịu hạn, mặn ở ĐBSCL
Theo
các nhà khoa học nghiên cứu chọn tạo giống lúa ở ĐBSCL, thì việc tìm
giống lúa chịu hạn, mặn thích nghi với biến đổi khí hậu đã được họ chuẩn
bị từ lâu.
TS Võ Công Thành, Trưởng Bộ môn Di truyền giống nông nghiệp Khoa Nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, trường ĐH Cần Thơ cho biết: Từ năm 2000 một số nhà khoa học trường ĐH Cần Thơ đã có những công trình sưu tập và giữ lại những giống lúa cổ truyền. Chúng tôi ngạc nhiên với giống lúa mùa địa phương như: Nàng Qướt, Tiêu Chùm, Sỏi Đá có khả năng chịu mặn tới 20%o, dù năng suất rất thấp, chỉ chừng 2-3 tấn/ha. Trong đó giống lúa Nàng Qướt của Tiền Giang xưa kia nổi trội thích nghi trên đất sát mé biển, vùng ngập mặn thường xuyên. Hay giống lúa Sỏi Đá nổi tiếng cứng cây, năng suất khá...
TS Phạm Trung Nghĩa, Trưởng Bộ môn Công nghệ sinh học - Viện Lúa ĐBSCL cho rằng: Cả 2 vùng lúa phía Bắc và Nam đã bắt đầu thực hiện đề tài chọn tạo giống lúa chịu mặn của Bộ NN-PTNT. Ở phía Nam, Viện Lúa ĐBSCL thực hiện chọn tạo bộ giống chịu mặn với kinh phí 3 tỷ trong 5 năm (2009-2013). Thời gian từ lai tạo - tuyển chọn, cho đến khi có được một số dòng lúa mới thuần chủng cần ít nhất là 6-7 vụ lúa, sau đó cần khoảng 2-4 vụ cho việc đánh giá năng suất, khảo nghiệm đặc tính của giống. Do đó thời gian chọn tạo giống là tương đối dài, cho nên mỗi chương trình, đề tài chọn giống đều có phần kế thừa nguồn dòng/giống lúa từ đề tài chọn tạo giống lúa khác thực hiện trước đó.
Từ năm 2009 đến nay, Viện Lúa ĐBSCL đã bước đầu tìm 30 dòng lúa có triển vọng chịu mặn là những dòng lúa kế thừa, được phát hiện chịu mặn qua nhiều lần thanh lọc trong phòng thí nghiệm và nhà lưới. Đánh giá những dòng lúa triển vọng này có khả năng chịu mặn tốt trong sản xuất lúa vùng ĐBSCL hay không còn đang được phối hợp khảo nghiệm ở một số trung tâm giống của các tỉnh như SócTrăng, Kiên Giang, Bến Tre, Bạc Liêu...
TS Nghĩa cho biết thêm, trong nghiên cứu ngoài việc chọn tạo giống lúa chịu mặn, chúng tôi cũng đang rất quan tâm đến các biện pháp kỹ thuật liên quan đến canh tác lúa như sử dụng phân bón giàu khoáng vi lượng-vitamin, chế phẩm sinh học, hóa chất cải tạo đất, kỹ thuật tưới tiêu, cải tạo đất... sao cho giúp cây lúa chịu đựng tốt hơn trong điều kiện bị nhiễm mặn. Kết hợp được giống lúa chịu mặn với biện pháp kỹ thuật sẽ giúp tăng tính chịu mặn của cây lúa lên cao hơn, sản xuất lúa trong mùa vụ nhiễm mặn sẽ an toàn, hiệu quả. Ngoài tính chịu mặn ra, giống lúa mới cần phải có năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, kháng sâu bệnh, thích nghi với điều kiện tự nhiên thì mới được bà con nông dân ưa thích, gieo trồng trong sản xuất.
Hiện nay, một số giống lúa mới của Viện Lúa ĐBSCL xác định có khả năng kháng mặn khá cao như OM6976, OM6677, OM5464, OM5629, OM5166... đã và đang được khảo nghiệm ở một số tỉnh: Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến Tre. Kết quả khảo nghiệm ban đầu ghi nhận khá khả quan, trong đó giống lúa OM5464 đang được đề nghị nhân rộng và trình Bộ NN-PTNT công nhận là giống lúa sản xuất thử trong năm 2010. Hai giống OM6976 và OM5166 đang được tiếp tục khảo nghiệm, xác định biện pháp kỹ thuật thích hợp để tăng tính chịu mặn và năng suất của giống. Hai giống lúa mới này đang dự kiến xin công nhận trong năm 2011.
TS Võ Công Thành xác nhận: Trong 2 năm 2008-2009, giống lúa BN được chọn tạo từ giống lúa IR 50404 đột biến cho thấy khả năng thích nghi trên vùng đất phèn, chịu hạn ở Đồng Tháp, Trà Vinh và ở Hậu Giang đã có gần 400-500ha. Giống BN chất lượng gạo mềm cơm, hàm lượng amylose trên 22%, bạc bụng 5% (ngưỡng cho phép 15%); kháng rầy, kháng đạo ôn, khô đầu lá, bệnh vonnnn Riêng giống Một bụi đỏ Hồng Dân, từ tháng 2/2009 bắt đầu thực hiện đến nay có được kết quả bước đầu với 100kg giống chuyển giao về huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) nhằm đáp ứng cho mô hình lúa-tôm, không sử dụng thuốc trừ sâu để sản xuất gạo sạch. Bên cạnh đó, hiện nay Bộ môn Di truyền chọn giống nông nghiệp Khoa nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, trường ĐH Cần Thơ đã có kết quả trong việc chọn tạo giống đậu bắp mới với ưu thế lai, có khả năng kháng sâu đục trái, sâu đục thân, chịu hạn, phèn; có khả năng trồng trên vùng đất mặn và năng suất cao. Đây là giống hướng tới sản xuất sạch, không dùng thuốc sâu để phát triển vùng rau màu ở vành đai các đô thị.
Trở lại với đề tài nghiên cứu chọn tạo giống lúa chịu mặn, TS Nghĩa nhận xét: Thực tế trong sản xuất hiện nay ở một số vùng lúa nhiễm mặn, ruộng lúa thường bị ngập tạm thời trong thời gian từ 7-18 ngày sau khi xuống giống đầu vụ. Hướng nghiên cứu thích nghi này đã được Viện Lúa Quốc tế thực hiện, còn Viện Di truyền NN và Viện Lúa ĐBSCL cũng đang bắt đầu thực hiện. Giống lúa bố mẹ mang tính chịu mặn và chịu ngập đã được xác định và không bị rào cản về bản quyền nguồn giống. Do BĐKH, kết hợp với việc xuất hiện đê ngăn nước thượng nguồn sông Mê Kông, nước trong sông, kênh rạch vùng ĐBSCL có thể bị thiếu tạm thời. Do đó chọn giống lúa chịu hạn trong thời gian ngắn (khoảng 5-14 ngày), đất không quá khô hạn (chủ yếu là ráo nước đến hơi khô) mà vẫn cho năng suất khá cao (từ 4-7 tấn/ha) là thích ứng nhất với điều kiện ĐBSCL. Chọn giống lúa theo hướng này sẽ đáp ứng tốt với kỹ thuật quản lý nước tưới tiêu tiết kiệm của Viện Lúa Quốc tế (tưới - khô ráo xen kẽ), hợp với điều kiện nguồn nước của ĐBSCL hiện nay
Đối với chọn giống lúa chịu nhiệt độ cao, TS Nghĩa cho rằng: Nhiệt độ cao trong giai đoạn trổ bông sẽ ảnh hưởng đến năng suất lúa. Ở nhiệt độ cao hơn 35oC trong vài giờ sẽ làm bông lúa đang trổ bị lép rất nhiều sau này. Nhiệt độ cao cũng sẽ làm giảm kích thước hạt lúa và giảm tỷ lệ xay chà gạo. Một vài đặc tính liên quan đến cấu trúc bông lúa cũng như đặc tính trổ sớm vào buổi sáng của một số lúa hoang có thể giúp lúa ít bị thiệt hại do nhiệt độ cao. Do đó, việc đầu tiên của hướng chọn giống này là phải đánh giá lại các ngân hàng gen giống lúa cho đặc tính chịu nhiệt độ cao, hoặc tìm nguồn giống lúa chịu nhiệt độ cao sử dụng trong các chương trình lai tạo.
TS Võ Công Thành, Trưởng Bộ môn Di truyền giống nông nghiệp Khoa Nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, trường ĐH Cần Thơ cho biết: Từ năm 2000 một số nhà khoa học trường ĐH Cần Thơ đã có những công trình sưu tập và giữ lại những giống lúa cổ truyền. Chúng tôi ngạc nhiên với giống lúa mùa địa phương như: Nàng Qướt, Tiêu Chùm, Sỏi Đá có khả năng chịu mặn tới 20%o, dù năng suất rất thấp, chỉ chừng 2-3 tấn/ha. Trong đó giống lúa Nàng Qướt của Tiền Giang xưa kia nổi trội thích nghi trên đất sát mé biển, vùng ngập mặn thường xuyên. Hay giống lúa Sỏi Đá nổi tiếng cứng cây, năng suất khá...
TS Phạm Trung Nghĩa, Trưởng Bộ môn Công nghệ sinh học - Viện Lúa ĐBSCL cho rằng: Cả 2 vùng lúa phía Bắc và Nam đã bắt đầu thực hiện đề tài chọn tạo giống lúa chịu mặn của Bộ NN-PTNT. Ở phía Nam, Viện Lúa ĐBSCL thực hiện chọn tạo bộ giống chịu mặn với kinh phí 3 tỷ trong 5 năm (2009-2013). Thời gian từ lai tạo - tuyển chọn, cho đến khi có được một số dòng lúa mới thuần chủng cần ít nhất là 6-7 vụ lúa, sau đó cần khoảng 2-4 vụ cho việc đánh giá năng suất, khảo nghiệm đặc tính của giống. Do đó thời gian chọn tạo giống là tương đối dài, cho nên mỗi chương trình, đề tài chọn giống đều có phần kế thừa nguồn dòng/giống lúa từ đề tài chọn tạo giống lúa khác thực hiện trước đó.
Từ năm 2009 đến nay, Viện Lúa ĐBSCL đã bước đầu tìm 30 dòng lúa có triển vọng chịu mặn là những dòng lúa kế thừa, được phát hiện chịu mặn qua nhiều lần thanh lọc trong phòng thí nghiệm và nhà lưới. Đánh giá những dòng lúa triển vọng này có khả năng chịu mặn tốt trong sản xuất lúa vùng ĐBSCL hay không còn đang được phối hợp khảo nghiệm ở một số trung tâm giống của các tỉnh như SócTrăng, Kiên Giang, Bến Tre, Bạc Liêu...
TS Nghĩa cho biết thêm, trong nghiên cứu ngoài việc chọn tạo giống lúa chịu mặn, chúng tôi cũng đang rất quan tâm đến các biện pháp kỹ thuật liên quan đến canh tác lúa như sử dụng phân bón giàu khoáng vi lượng-vitamin, chế phẩm sinh học, hóa chất cải tạo đất, kỹ thuật tưới tiêu, cải tạo đất... sao cho giúp cây lúa chịu đựng tốt hơn trong điều kiện bị nhiễm mặn. Kết hợp được giống lúa chịu mặn với biện pháp kỹ thuật sẽ giúp tăng tính chịu mặn của cây lúa lên cao hơn, sản xuất lúa trong mùa vụ nhiễm mặn sẽ an toàn, hiệu quả. Ngoài tính chịu mặn ra, giống lúa mới cần phải có năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn, kháng sâu bệnh, thích nghi với điều kiện tự nhiên thì mới được bà con nông dân ưa thích, gieo trồng trong sản xuất.
Hiện nay, một số giống lúa mới của Viện Lúa ĐBSCL xác định có khả năng kháng mặn khá cao như OM6976, OM6677, OM5464, OM5629, OM5166... đã và đang được khảo nghiệm ở một số tỉnh: Sóc Trăng, Kiên Giang, Bạc Liêu, Bến Tre. Kết quả khảo nghiệm ban đầu ghi nhận khá khả quan, trong đó giống lúa OM5464 đang được đề nghị nhân rộng và trình Bộ NN-PTNT công nhận là giống lúa sản xuất thử trong năm 2010. Hai giống OM6976 và OM5166 đang được tiếp tục khảo nghiệm, xác định biện pháp kỹ thuật thích hợp để tăng tính chịu mặn và năng suất của giống. Hai giống lúa mới này đang dự kiến xin công nhận trong năm 2011.
TS Võ Công Thành xác nhận: Trong 2 năm 2008-2009, giống lúa BN được chọn tạo từ giống lúa IR 50404 đột biến cho thấy khả năng thích nghi trên vùng đất phèn, chịu hạn ở Đồng Tháp, Trà Vinh và ở Hậu Giang đã có gần 400-500ha. Giống BN chất lượng gạo mềm cơm, hàm lượng amylose trên 22%, bạc bụng 5% (ngưỡng cho phép 15%); kháng rầy, kháng đạo ôn, khô đầu lá, bệnh vonnnn Riêng giống Một bụi đỏ Hồng Dân, từ tháng 2/2009 bắt đầu thực hiện đến nay có được kết quả bước đầu với 100kg giống chuyển giao về huyện Hồng Dân (Bạc Liêu) nhằm đáp ứng cho mô hình lúa-tôm, không sử dụng thuốc trừ sâu để sản xuất gạo sạch. Bên cạnh đó, hiện nay Bộ môn Di truyền chọn giống nông nghiệp Khoa nông nghiệp & Sinh học ứng dụng, trường ĐH Cần Thơ đã có kết quả trong việc chọn tạo giống đậu bắp mới với ưu thế lai, có khả năng kháng sâu đục trái, sâu đục thân, chịu hạn, phèn; có khả năng trồng trên vùng đất mặn và năng suất cao. Đây là giống hướng tới sản xuất sạch, không dùng thuốc sâu để phát triển vùng rau màu ở vành đai các đô thị.
Trở lại với đề tài nghiên cứu chọn tạo giống lúa chịu mặn, TS Nghĩa nhận xét: Thực tế trong sản xuất hiện nay ở một số vùng lúa nhiễm mặn, ruộng lúa thường bị ngập tạm thời trong thời gian từ 7-18 ngày sau khi xuống giống đầu vụ. Hướng nghiên cứu thích nghi này đã được Viện Lúa Quốc tế thực hiện, còn Viện Di truyền NN và Viện Lúa ĐBSCL cũng đang bắt đầu thực hiện. Giống lúa bố mẹ mang tính chịu mặn và chịu ngập đã được xác định và không bị rào cản về bản quyền nguồn giống. Do BĐKH, kết hợp với việc xuất hiện đê ngăn nước thượng nguồn sông Mê Kông, nước trong sông, kênh rạch vùng ĐBSCL có thể bị thiếu tạm thời. Do đó chọn giống lúa chịu hạn trong thời gian ngắn (khoảng 5-14 ngày), đất không quá khô hạn (chủ yếu là ráo nước đến hơi khô) mà vẫn cho năng suất khá cao (từ 4-7 tấn/ha) là thích ứng nhất với điều kiện ĐBSCL. Chọn giống lúa theo hướng này sẽ đáp ứng tốt với kỹ thuật quản lý nước tưới tiêu tiết kiệm của Viện Lúa Quốc tế (tưới - khô ráo xen kẽ), hợp với điều kiện nguồn nước của ĐBSCL hiện nay
Đối với chọn giống lúa chịu nhiệt độ cao, TS Nghĩa cho rằng: Nhiệt độ cao trong giai đoạn trổ bông sẽ ảnh hưởng đến năng suất lúa. Ở nhiệt độ cao hơn 35oC trong vài giờ sẽ làm bông lúa đang trổ bị lép rất nhiều sau này. Nhiệt độ cao cũng sẽ làm giảm kích thước hạt lúa và giảm tỷ lệ xay chà gạo. Một vài đặc tính liên quan đến cấu trúc bông lúa cũng như đặc tính trổ sớm vào buổi sáng của một số lúa hoang có thể giúp lúa ít bị thiệt hại do nhiệt độ cao. Do đó, việc đầu tiên của hướng chọn giống này là phải đánh giá lại các ngân hàng gen giống lúa cho đặc tính chịu nhiệt độ cao, hoặc tìm nguồn giống lúa chịu nhiệt độ cao sử dụng trong các chương trình lai tạo.
Nguồn: Báo Nông nghiệp Việt Nam
Chọn tạo giống lúa hướng đến thích ứng với biến đổi khí hậu Tiến sĩ Phạm Trung Nghĩa Phó Viện Trưởng Viện Lúa ĐBSCL |
Báo Điện tử Cần Thơ 16.9.2011 |
Trong
điều kiện khí hậu, môi trường ngày càng khắc nghiệt, công tác nghiên
cứu, chọn tạo giống lúa nhằm nâng cao giá trị hạt gạo, phục vụ sản xuất
được đặt ra hàng đầu. Xoay quanh vấn đề này, Tiến sĩ Phạm Trung Nghĩa,
Phó Viện trưởng Viện Lúa ĐBSCL, cho biết: - Sản xuất lúa ở vùng ĐBSCL đang phải đối diện với những khó khăn ban đầu do biến đổi khí hậu gây ra như: hiện tượng nhiễm mặn lan rộng, kéo dài và khô hạn cục bộ. Mặc dù tình hình trên chưa ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất lúa vùng ĐBSCL nhưng mức độ thiệt hại đang có chiều hướng tăng lên. Do đó, công tác nghiên cứu, chọn tạo giống lúa đang tập trung nhiều vào đặc tính chống chịu mặn, hạn cho giống lúa cao sản. Bên cạnh đó, Viện Lúa ĐBSCL hiện đang tập trung vào 2 mục tiêu nghiên cứu chọn tạo chính cho vùng phù sa nước ngọt, thâm canh là: (1) Chọn tạo giống lúa ngắn ngày (80-90 ngày), kháng sâu bệnh, phẩm chất gạo tốt, thích nghi cho canh tác các vùng trồng 3 vụ lúa/năm. Một vài giống lúa triển vọng ngắn ngày mới (OM11211, OM10424, OM10434, OM6904,...) đang được khảo nghiệm tại các tỉnh ĐBSCL. (2) Chọn tạo các giống lúa theo hướng tăng trần năng suất (đạt 10-12 tấn/ha), thời gian sinh trưởng từ 95-105 ngày, kháng sâu bệnh, phẩm chất gạo tốt, thích nghi cho vùng 2 vụ lúa/ năm. Với xu hướng tăng trần năng suất, công tác nghiên cứu, chọn tạo giống lúa mới từ các tổ hợp lai giống lúa dạng hình indica với giống lúa japonica đang được tập trung thực hiện. Nhiều dòng lúa triển vọng từ các tổ hợp lai indica x japonica với thân rạ to, cứng cây, đẻ nhánh khá, bông to chùm, tiềm năng năng suất cao đang được quan sát tại Viện Lúa ĐBSCL. * Xu hướng nghiên cứu, chọn tạo và khuyến cáo các giống lúa phù hợp trong tình hình hiện nay được Viện tiến hành ra sao, thưa Tiến sĩ? - Mục tiêu chọn tạo ra được các giống lúa chống chịu mặn ở mức độ từ 4-6‰ muối là rất cần thiết nhằm bảo đảm sản lượng lúa vùng ĐBSCL. Các nghiên cứu của Viện Lúa cho thấy, các giống lúa cao sản bị chết trên 80% số cây khi bị nhiễm mặn ở mức 4-6‰ trong vòng 1 tháng ở giai đoạn mạ, và giảm trên 60% năng suất khi bị mặn liên tục từ ngày thứ 55 sau khi gieo đến trổ. Thực tế, trong sản xuất lúa ở các vùng nhiễm mặn ĐBSCL, người dân vẫn còn đang canh tác diện rộng một số giống lúa cao sản chịu mặn cũ, phẩm chất gạo xấu (OM576, OM1490, AS996,...). Một số giống lúa mới phóng thích gần đây như: OM6976, OM8923, OM4900, OM5451, OM5464, OM5629 có tính chịu mặn từ 3-4‰ muối, phẩm chất gạo khá tốt và có tiềm năng năng suất cao. Một số dòng lúa chịu mặn mới như: OM7347, OM9915, OM9921 và OM9916 có tính chịu mặn khá tốt, gạo có mùi thơm đậm, cơm ngon, đang được khảo nghiệm và nhân rộng tại một số trung tâm giống các tỉnh như: Cà Mau, Sóc Trăng, Kiên Giang, Bến Tre và Trà Vinh. Về giống lúa chịu hạn, hiện có 2 giống lúa mới có tính chịu hạn khá, thích hợp cho vùng ĐBSCL đã được phóng thích vào sản xuất là OM5464 và OM6162. Do tính chất hạn ở ĐBSCL chỉ là những đợt hạn ngắn khoảng 5-14 ngày nên việc chọn tạo giống theo hướng chọn giống lúa thích nghi với điều kiện đất khô ráo, tưới nước tiết kiệm nhưng vẫn cho năng suất cao. Riêng xu thế chọn giống lúa có phẩm chất gạo cao, Viện cũng đã tạo ra được một số giống lúa thơm, gạo thon dài trên 7mm như: OM4900, OM6162, OM7347, OM9915, OM9921,... * Thực tế, có một số giống lúa chất lượng cao nhưng vẫn chưa được người tiêu dùng biết đến, chấp nhận. Theo Tiến sĩ nguyên nhân do đâu? Viện có chiến lược gì để phát triển giống lúa chất lượng cao? - Có vài lý do chính sau: Thứ nhất, giống lúa chất lượng cao thường hay bị nhiễm một hoặc vài loại sâu bệnh, thuộc nhóm giống có thời gian sinh trưởng từ 95-105 ngày. Đây là khuyết điểm cho nhóm lúa chất lượng cao khi so sánh với các giống lúa cao sản, ngắn ngày, chất lượng gạo thấp như IR50404, OM4218,... nên nông dân còn e dè trong sử dụng giống lúa này. Thứ hai, chúng ta vẫn chưa có nhiều vùng sản xuất lúa cho một giống lúa chất lượng cao nào đủ lớn để các doanh nghiệp thu mua, chế biến và hình thành thương hiệu. Một vùng sản xuất lúa canh tác hàng chục giống lúa khác nhau thường dẫn đến tình trạng bị trộn lẫn nhiều loại giống lúa khác nhau, làm giảm giá trị hạt gạo. Thứ ba, hạt gạo chất lượng thấp như: IR50404, OM576... hiện nay có thị trường thu mua nhiều hơn so với hạt gạo của giống lúa chất lượng cao, đôi khi giá mua giữa 2 loại gạo này không khác biệt. Do đó, ngoài biện pháp chọn tạo ra các giống lúa chất lượng cao, kháng sâu bệnh tốt hơn, thì việc quy hoạch sản xuất và tìm thị trường tiêu thụ nhằm đảm bảo giá trị kinh tế của hạt gạo chất lượng cao là cần thiết. Để các chương trình phát triển giống lúa chất lượng cao có thể đưa vào sản xuất lúa trong điều kiện môi trường, khí hậu ngày càng khốc liệt, thì mục tiêu chọn tạo giống lúa chất lượng cao phải được kết hợp với mục tiêu chọn tạo giống lúa cho điều kiện canh tác bất lợi như: chống chịu mặn, hạn, ngập tạm thời... Viện Lúa ĐBSCL cũng đang tiếp tục thực hiện các đề tài nghiên cứu chọn tạo giống lúa chất lượng cao. Mục tiêu chất lượng gạo của các đề tài chọn giống lúa chất lượng hiện nay là phải đạt tiêu chuẩn hạt gạo của giống Jasmine85 (thơm, hạt gạo thon dài, trong, ít bạc bụng, cơm dẽo mềm). Hướng phấn đấu trong tương lai là chất lượng hạt gạo phải đạt tiêu chuẩn chất lượng của giống lúa Basmati- một giống lúa nổi tiếng ở các vùng sản xuất lúa của Pakistan và Ấn Độ có mùi thơm đậm, gạo thon dài, mềm dẻo và ngon. * Theo Tiến sĩ, để nâng cao hơn nữa giá trị kinh tế của hạt gạo thì cần phải quan tâm đến vấn đề gì trong sản xuất? - Theo tôi, vấn đề cần quan tâm trước hết là việc sử dụng giống lúa xác nhận trong nông dân hiện nay chỉ khoảng 20-40%, còn lại là hạt lúa tự để lại từ ruộng sản xuất để làm giống cho vụ sau, nên cần nâng cao hơn nữa số lượng hạt giống xác nhận được sử dụng trong nông dân. Để làm tốt khâu này, mạng lưới đánh giá và nhân giống lúa các cấp giữa cơ quan tạo giống (viện/ trường đại học) với các trung tâm giống các tỉnh, công ty giống cần phải được liên kết, tổ chức lại chặt chẽ hơn. Cơ quan tạo giống cần nắm bắt được nhu cầu giống lúa, số lượng cần cho từng năm, để có kế hoạch nhân giống lúa siêu nguyên chủng, nguyên chủng cung cấp đủ cho các tỉnh. Trung tâm giống, trung tâm khuyến nông các tỉnh cần tăng cường công tác nhân giống lúa cấp nguyên chủng, xác nhận và đẩy mạnh xã hội hóa công tác giống. Đồng thời thực hiện tốt mạng lưới nhân giống lúa các cấp, để cung cấp đủ số lượng giống xác nhận cho nông dân sử dụng lên trên 80% diện tích canh tác lúa. Cần đẩy mạnh hơn nữa việc quy hoạch và thực hiện các vùng sản xuất lúa cho từng giống lúa chất lượng cao. Gần đây, một số tỉnh thực hiện rất tốt mô hình “Nông hộ nhỏ, cánh đồng lớn” giúp quy hoạch lại ruộng đất, cơ giới hóa trồng lúa và hình thành cơ cấu một vài giống lúa chủ lực/cánh đồng. Một vấn đề quan trọng cần quan tâm là khâu tổ chức sấy lúa và bảo quản trong vụ hè thu. Do biện pháp sấy lúa hiện nay vẫn chưa thuận tiện, tốn kém nhiều chi phí vận chuyển, nên nhiều nông hộ tự phơi lúa, điều đó thường không đảm bảo cho phẩm chất hạt gạo khi bảo quản và chế biến, làm giảm giá trị kinh tế. Nếu chúng ta tổ chức được các lò sấy lúa di động, nhất là ở những cánh đồng lớn, giúp các nông hộ sấy lúa kịp thời sau khi thu hoạch, thì việc sản xuất lúa vụ hè thu sẽ thuận lợi hơn. * Xin cảm ơn Tiến sĩ!
N.NGÂN (Thực hiện)
Giống lúa xanh siêu cao sản
|
FOOD CROPS VIDEO
hoangkim vietnam đã thêm vào Video yêu thích
hoangkim vietnam đã thêm vào Video yêu thích
1 nhận xét:
Câu hỏi luôn được nhiều khách hàng đặt hoa nở vào mùa đông ra là lên mua sim số đẹp làm đen tóc bạc mà không cần nhuộm 10 số ở đâu giá rẻ và đảm bảo nhất, để ăn canh gì giải rượu trả lời được câu hỏi đó bạn hãy đến với website tinh trùng y sống được bao lâu simsodepvip.vn. Website chúng tôi là một nơi quoc hoa cua viet nam la hoa gi chuyên bán sim số đẹp uy tín chất lượng quốc hoa của các nước có địa chỉ đăng kí kinh doanh lâu năm quốc hoa của nhật bản là gì tại 575 - Giải Phóng - Hoàng Mai - Hà Nội. Chúng tôi hon 1 triệu sim số đẹp 10 số trong tay với đủ chủng loại nhự: sim dễ nhớ, sim năm sim sim số lặp, số kép sim gánh đảo, sim taxi, sim tam hoa, sim tứ quý, ngũ quý,... quốc hoa của hàn quốc với giả rẻ nhất trên thị trường cùng với một chính sách bảo hành toàn diện giúp các bạn can tâm tuyệt đối khi mua sim.
Đăng nhận xét